Friday, March 22, 2013

Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật - Sedgwick Tourison,1995


Tác giả: Sedgwick Tourison.
dịch từ: Secret Army-Secret War.

LỜI GIỚI THIỆU


Tháng 6 năm 1985, khi đánh giá về cuộc chiến tranh Việt Nam, thượng nghị sĩ John Mc Cain đã phát biểu:

“...Quân đội Mỹ có thể cuốn gói đưa về nước xe tăng, máy bay, tàu chiến, đại bác, thiết giáp, súng M16 và hàng chục vạn binh lính các loại. Nhưng còn rất lâu nữa, nước Mỹ mới tìm thấy sự yên ổn và thanh thản trong tâm hồn “.

Quả thật “nước Mỹ sau Việt Nam" vẫn còn nhiều nhức nhối. Nhiều chính khách Mỹ không thể kìm nén được đã chủ động viết thành sách để phê phán, phân tích, mổ xẻ, giải bày về từng khía cạnh nhằm bộc bạch tâm trạng, thanh minh lỗi lầm, bào chữa, biện minh cho trường hợp dính líu của mình cốt làm vơi bớt đi những day dứt mặc cảm đang đè nặng lên tâm tư họ.

Không chỉ vì những suy tư ấy, Sedgwick Tourison, nguyên là một cựu điệp viên CIA đã nhiều năm hoạt động ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan... Sau đó, ông là thành viên của Uỷ ban đặc biệt Thượng nghị viện Mỹ chuyên trách về POW/MIA cho đến năm 1993. Vốn là người trong cuộc, có những hiểu biết sâu về thực tế, lại có điều kiện quan hệ, gặp gỡ với nhiều người có liên quan, được tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu mật. . . Ông đã bỏ công sức trên 10 năm liền để viết cuốn “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật” (Secret Army-Secret war), được Nhà xuất bản của Viện Hải quân Mỹ (Naval Institute Press Annapolis MD.USA) in năm 1995.

Ngay trong lời tự sự của mình, Sedgwick viết:

“...Đây không phải là câu chuyện về các điệp viên bí mật của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam thuộc Liên đội quan sát số 1 và Phái bộ Viện trơ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACSOG). Trái lại, đây là câu chuyện về những người Việt Nam được MACSOG tuyển mộ đúng với bản chất của cuộc chiên tranh, họ đã bị đẩy vào con đường cực kỳ nguy hiểm. Câu chuyện về họ chưa một ai được biết, ngoại trừ một số rất ít người Mỹ giữ cương vị và am hiểu tiếng Việt. Bởi lẽ đây là câu chuyện riêng của chúng ta, nói về cuộc chiến tranh của chúng ta, và vì cuộc chiến tranh đó mà họ đã phải trả giá quá đắt.

...Đây là câu chuyện có thật về hoạt động của đội quân gián điệp biệt kích do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Một đội quân đông tới 500 người gồm trên 50 toán và đã bị bắt, bị vô hiệu hóa trong khi thực thi các hoạt động tuyệt mật của Washington chống lại Bắc Việt Nam. Họ là một trong những lý do chủ yếu làm cho cuộc chiến tranh Việt Nam bùng nổ. Nhưng họ lại không đóng một vai trò quan trọng nào trong cuộc chiến tranh sau đó. Bởi vì họ đã bị xoá sổ và đã ba lần bị chối bỏ trong cuộc tháo chạy hoảng loạn, vội vã của Mỹ nhằm rút khỏi Việt Nam trong danh dự”.

Trong cuốn sách này, tác giả đã kết cấu thành năm phần lớn và 22 đề mục nhỏ. Ông đã phác hoạ ra một bức tranh toàn diện của các hoạt động tình báo Mỹ ở Việt Nam trong nửa thế kỷ qua (1945-1994). Tác giả đã chọn nhiều ảnh, nhiều bản đồ để minh hoạ cho sự kiện. Ở đây, tác giả còn muốn phơi bày một sự thật phũ phàng, đó là sự lẩn tránh, sự chối từ trách nhiệm, đó là ý đồ bưng bít, che giấu sự thật lịch sử của Lầu Năm góc và tình báo Mỹ. Ngay từ năm 1970, mọi tài liệu có liên quan đến các toán gián điệp biệt kích người Việt Nam đều đã được xếp vào loại tuyệt mật, được đào sâu, chôn chặt, khoá kỹ trong các két sắt đặc biệt. Đây là loại tài liệu không một ai, không bao giờ được đem ra ánh sáng. Người ta mong muốn sẽ nhanh chóng xoá nhoà câu chuyện, thời gian sẽ làm lãng quên, tài liệu sẽ bị thiêu hủy. . . Tác giả cũng muốn kêu gọi những người biết rõ sự việc hãy nói lên sự thật đó. Ông viết:

“...Tôi hy vọng rằng các quân nhân trong lực lượng MACSOG hãy nói lên những điều mà họ còn giữ kín trong lòng. Hãy nói lên sự thật bằng chính tên của mình chứ không cần phải giấu diếm dưới những bút danh khác một khi sự thật đã trở thành hiển nhiên, không thể phủ nhận hoặc lừa dối được nữa. Việc công khai hoá cho quần chúng nhân dân Mỹ biết rõ sự thật là điều cần thiết và bô ích”.

Công khai thú nhận thất bại quả thật là một điều không dễ dàng gì.

Chính tác giả cũng chẳng muốn "vạch hết áo cho người xem lưng" đâu. Mà đó là điều bất đắc dĩ phải làm, phải viết không thể làm khác đi được.

Đánh giá về thất bại, tác giả đã dùng lời của một điệp viên thú nhận:

“Tôi không cho rằng không có một toán gián điệp biệt kích nào thành công cả. Thực tế đã có những toán xâm nhập vào và rút ra an toàn. Nhưng đó chỉ là những toán gián điệp con thoi hoạt động có tính chất chớp nhoáng, có tính chất gây rối ở phía Bắc khu phi quân sự mà thôi. Còn các toán được tung ra hoạt động ở các vùng xa, trên phạm vi rộng và trong thời gian dài thì hầu như hoàn toàn bị thất bại.

Hình như các điệp viên của chúng ta đã bị đón lõng trước khi họ được tung vào miền Bắc. Bất cứ bằng đường không, đường biên, đường bộ, ở nơi hẻo lánh, hoặc khu vực dân cư, dù vào ban đêm hay ban ngày. . . họ luôn được những người trên đất liền chờ đón . Nếu có điệp viên nào đó may mắn vào ra trót lọt thì có thể đặt câu hỏi là: liệu đó có phải là họ 'thả lỏng" do không cần phải làm gì nữa vì họ đã biết rất rõ mọi điều rồi."

Tác giả cũng dành ra 10 đề mục nhỏ để viết về miền Bắc,về sinh hoạt, cuộc sống, thái độ đối xử của những người tù trong các trại giam. Viết về trại Quyết Tiến, trại Phong Quang, trại Phố Lu, trại Quảng Ninh, nhà tù Sơn La, Thanh Liệt. . . Viết về công tác giáo dục, cải tạo và các hình thức kỷ luật, viết về những dằn vặt, ương bướng, lo ngại, khổ đau của các tù nhân trước thời cuộc, trước số phận. . .

Có thể nói tác giả đã cung cấp cho người đọc cái nhìn khái quát, toàn diện về hoạt động tình báo gián điệp Mỹ đối với đất nước ta . Những ý đồ chiến lược của CIA, của Lầu Năm Góc, về kế hoạch 34A . . . và sự thất bại thảm hại. . . Về chi tiết tuy có chỗ còn quá cường điệu, quá nhấn mạnh hoặc thể hiện rõ dụng ý nói xấu, bôi nhọ…

Nhưng điều đó cũng là tất nhiên. Tác giả có ý đồ, có cách nhìn và mục đích riêng. Hơn nữa các tài liệu, tư liệu về phía chúng ta tác giả có được phần lớn là dựa vào lời kể của các đối tượng bị tù, đang sẵn căm ghét và hận thù. Vì vậy khó mà tránh được sai lệch, méo mó và cả sự vu khống có dụng ý nữa!

Chính tác giả cũng đã thừa nhận :

“...Vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa được giải đáp. Do bản chất của hoạt động này và những vấn đề phức tạp thuộc về công việc, về nghề nghiệp, pháp lý và đạo lý…Cho nên không bao giờ, không một ai có thể đưa ra đầy đủ câu trả lời cho mọi vấn đề.”

Về điểm này, ngay lực lượng Công An Nhân Dân ta đã từng chiến đấu và bắt sống nhiều toán gián điệp biệt kích cũng chưa biết hết, tường tận. Do vậy mà cuốn sách mang tính tư thú của chính người tham gia chỉ huy tung gián điệp biệt kích này sẽ giúp ta hiểu rõ thêm tầm cỡ chiến thắng và nhiều điều trước đây còn đang là ẩn số.

Bỏ qua tất cả những hạn chế trên, chúng tôi cho rằng đây là một tài liệu tham khảo bổ ích và lý thú. Bởi tác giả là người trong cuộc, là người ở phía đối phương viết về chính nước Mỹ và thất bại của họ. Viết về Gián điệp biệt kích - một lĩnh vực đang được giấu kín, bị phong toả, một lĩnh vực chưa có nhiều tác giả viết sâu về nó. Đọc nó chắc sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về thắng lợi và về đường lối chiến tranh nhân dân của chúng ta .

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc và mong nhận được nhiều ý kiến bổ sung, góp ý.

LỜI TÁC GIẢ

BK Moc A Tai, Tourison sign the book, Pham Hoa, BS Pham Gia Con Nhay Du

Quá nửa đêm ngày 27-5-1961, trên bầu trời tỉnh miền núi Sơn La thuộc vùng Tây Bắc xa xôi của Bắc Việt Nam, trong chốc lát mặt trăng bị che khuất bởi thân hình của chiếc máy bay bà già hai động cơ C47 từ thời Thế chiên thứ II. Chiếc máy bay hạ thấp độ cao trên vùng Phú Yên, một khu dân cư của huyện Mộc Châu về phía Đông-Bắc, kinh đô cộng sản của nước Lào láng giềng là Sầm Nưa.
Bốn thân hình nhỏ nhoi bỗng nhiên tách khỏi chiếc máy bay vận tải. Chúng lập tức bung ra bốn chiếc dù, rơi theo qui luật tự nhiên xuống khu vực đổ bộ đã được dự tính ở các đồi cây phía dưới. Các thành viên của toán biệt kích mang biệt danh CASTER đang được đưa trở về quê hương chôn rau cắt rốn của họ.

Con ngựa già của cuộc chiến tranh trước đó (với người Pháp) đã nhanh chóng leo lên thành một viên phi công. Một viên sĩ quan xuất sắc của không lực Nam Việt Nam đã vui mừng thở phào nhẹ nhõm khi hoàn thành phi vụ của mình. Chiếc C47 bay trong vùng không khí loãng dọc theo hướng nam để thoát khỏi không phận của kẻ thù trên vùng trời Bắc Việt Nam và sang vùng an toàn của nước Lào bên cạnh. Nó biến mất trong khi bốn chiếc dù xanh lá cây của quân đội Mỹ lắc lư, từ từ rơi xuồng bóng đêm và những bụi rậm đang đợi chúng ở phía dưới.

Họ vừa đặt chân xuống đất được vài phút thì những ngọn 1ửa bập bùng đã tỏa ra để chào đón các biệt kích của Nam Việt Nam. Tiếng súng trường và tiểu liên nổ rộ lên từ phía những người tấn công vô hình rồi đột nhiên ngừng bặt và im lặng như tờ.

Các binh sĩ của quân chủ lực Bắc Việt Nam tìm thấy một điệp viên đang nằm trên một vũng máu, bên cạnh anh ta là chiếc đài còn nguyên vẹn.

Họ dùng điện đài gọi binh sĩ thuộc lực lượng chống biệt kích của quân khu Tây Bắc đến để lùng bắt các biệt kích đang lẩn trốn. Các binh lính Bắc Việt bắt được một biệt kích bị thương cùng với điện đài của anh ta, thế nhưng họ rất cần khoá mật mã của toán biệt kích này.

Đinh Văn Anh, một trung sỹ của quân lực Nam Việt Nam là một trong những người sống sót, anh ta chạy trốn được hai ngày rồi cũng bị bắt. Đinh Văn Anh là người giữ mật mã của toán CASTER. Trong cuốn sổ mật mã của anh ta đầy rẫy những khối chữ số được mã hoá bằng máy tính điện tử.

Thế là những người bắt biệt kích Bắc Việt đã có đủ mọi thứ-hầu như thế. Sự thách thức bây giờ là tìm ra được những biệt kích sẵn sàng hợp tác với họ.

Sau vài ngày đặt chân xuống mặt đất và được đón tiếp bằng những loạt súng vang rền. Đến lượt anh phải đương đầu với người hỏi cung trong tư thế của một kẻ hoàn toàn bị khuất phục, hai tay bị trói chặt sau lưng, các dây trói được buộc chặt trên khuỷu tay của anh gần như bị tê liệt. Người Bắc Việt tra tấn anh đóng vai trò một quan toà. Người bị bắt ngồi bệt dưới đất, người hỏi cung ngồi trên cao nhìn chằm chằm xuống anh ta. Cuộc hỏi cung được bắt đầu bằng một loạt các câu hỏi và trả lời chi tiết dường như không dứt và không biết chán.

Trả lời, trả lời và trả lời.

“Anh khai cho tôi biết ông Chương ở đâu?”

Người bị bắt cố lục tìm trong trí nhớ của mình nhưng không thể tìm ra câu trả lời.

Đối với người hỏi cung, sự im lặng của kẻ bị bắt có nghĩa là anh ta biết sự thật phải được bóc trần một cách khéo léo cũng như người ta bóc một cách cẩn thận vỏ ngoài của một quả thạch lựu để khỏi làm hỏng các hạt bên trong. Một biệt kích bị bắt không bị làm thương tổn và sẵn sàng hợp tác là vô cùng quí giá. Điều tồi tệ là một số lính tráng Bắc Việt nổ súng quá nhanh.

“Tôi hỏi anh thêm một lần nữa, ông Chương ở đâu?”

“Tôi... Tôi không biết ông Chương nào cả!”

Câu trả lời của anh ta là không có sức thuyết phục. Người ta muốn một câu trả lời tích cực cơ, luôn luôn phải là như vậy.

Anh được giao nhiệm vụ liên lạc với ông Chương. Ông Chương là ai và ông ta ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi không biết ai tên là Chương cả."

Thậm chí không cần những câu hỏi thẳng về một ông Chương mà anh ta không biết, thì anh cũng nhận ra rằng mọi thứ đều có thể đã hỏng cả. Các bản đồ của toán, các bức ảnh chụp từ trên không và các lời huấn thị ở Sài Gòn trước lúc ra đi đã cho thấy rằng các biệt kích sẽ đổ bộ xuống một khu vực không có dân cư. Thay vì một khu vực được tính trước là tương đối an toàn, thì họ lại đổ bộ thẳng xuống một trung tâm huấn luyện dân quân địa phương cạnh một làng nhỏ. Rõ ràng là cuộc viếng thăm của họ đã được mong đợi và cũng không kém phần rõ ràng là những người hỏi cung Bắc Việt Nam biết về hoạt động của họ nhiều hơn là bốn người họ biết. Tồi tệ nhất là chỉ huy của họ ở Sài Gòn lại trao cho mỗi người một tên thật. Điều này đã dễ dàng cho Hà Nội, hầu như quá dễ. Điều gì sai lầm đã xẩy ra?

Toán biệt kích CASTER đã nhận được chỉ thị rằng nhiệm vụ của họ là xây dựng một căn cứ kháng chiến và một mạng lưới cơ sở ngầm ở sân sau phòng tuyến của Bắc Việt Nam. Người ta bảo rằng nhiều toán nữa sẽ được phái đi. Họ tin những gì người ta bảo họ, và vì thế cho nên họ đã tình nguyện tham gia vào đội thập tự chinh này.

Chẳng bao lâu sau khi toán biệt kích CASTER đổ bộ, điện đài Mỹ đã thu được báo cáo đầu tiên của CASTER. Bức điện nói rằng toán CASTER đã đến đúng mục tiêu và đang chuẩn bị thực thi nhiệm vụ của mình. Như CIA đã hy vọng, CASTER đề nghị cho chỉ thị.

Nhân viên điện đài đó đã không báo cáo rằng anh ta đang truyền đi bức điện được mã hoá của mình trước họng súng của một sĩ quan an ninh Bắc Việt Nam đang chĩa thẳng vào đầu anh ta. Anh ta cũng không báo rằng có những dấu hiệu cho thấy là đối phương đã biết trước về cuộc đổ bộ của toán CASTER và đã kiên nhẫn chờ đợi hang tuần lễ trước khi toán CASTER được chiếc máy bay bà già C47 thả dù họ xuống.

Hà Nội còn trên tài cả CIA vì họ đã biết trước kế hoạch hoạt động của CIA và đã phục kích chờ toán CASTER mò tới. Hà Nội kiên nhẫn chờ đợi. Họ còn làm cho William Colby, trưởng trung tâm CIA ở Sài Gòn, bị nhiều phen sửng sốt khác.

Câu chuyện không phải được bắt đầu bằng toán biệt kích mang biệt danh CASTER, mà nó được bắt đầu từ trước đó những hai mươi năm với một người mang tên PATTI.

1. KẾT GIAO VỚI HÀ NỘI / Phần I



Phần I
GIAI ĐOẠN MỞ ĐẦU
(1945-1963)

Các toán điệp viên được Mỹ đào tạo kiểu như CASTER vẫn là sự tiếp nối các bài bản về công tác tình báo bí mật của Mỹ đã tồn tại ở Việt Nam gần hai thập kỷ qua.
Hoạt động lớn đầu tiên của Mỹ là vào mùa xuân năm 1945 dưới sự chỉ huy của Archimedes L.A.Patti - Phụ trách khu vực Bắc Đông Dương với nhóm cơ quan công tác chiến lược (OSS) đóng ở Côn Minh, Nam Trung Quốc. Theo Patti, người được giới thiệu tới cơ sở vào năm 1943, khi thôi làm ở Tổng hành dinh của OSS Washington thì lực lượng địa phương ở Đông Dương là Việt Minh do Cộng sản thống lĩnh.

Việc Việt Minh chủ yếu do Cộng sản nắm quyền không quan trọng bằng sự xuất hiện trong bản thân lực lượng Việt Minh, một tổ chức rộng rãi những người theo chủ nghĩa dân tộc, tạo điều kiện cho Mỹ có thể xâm nhập và ủng hộ trong toàn Đông Dương. Hơn nữa, trong chiến tranh Thế giới thứ 2 thì OSS phối hợp một cách tích cực với các lực lượng dân tộc chủ nghĩa khác nhau phát triển từ Pháp cho đến Trung Quốc. Theo như cách nhìn nhận của Patti thì cách giải quyết mà ông ta đã đưa ra trong giai đoạn 1945 là có được kết quả phù hợp với chính sách của Washington tại thời điểm đó, chứ không phải sản phẩm riêng được tạo nên bởi sự đánh giá chủ quan của Patti. Như vậy Việt Minh đã biết Mỹ tiến hành hoạt động bí mật ở Đông Dương như thế nào không phải bằng cách đánh cắp mà là thông qua các sĩ quan OSS, những người đã đào tạo các nhân viên Việt Nam hoạt động theo kiểu Mỹ.

Việc làm đầu tiên của Patti là gặp lãnh tụ Việt Nam, Hồ Chí Minh ở Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau đó, Hồ Chí Minh và những người Việt Nam khác được đưa vào hồ sơ của Patti như những người cộng tác của Mỹ. Tháng 7 năm đó Thiếu tá Allison R. Thomas chỉ huy trưởng của toán DEER có tên là "Con nai" của OSS, đã nhảy dù xuống Bắc Việt Nam, gần Tuyên Quang, nơi mà ông ta đã trực tiếp gặp Hồ Chí Minh. Cùng đi với Thomas có hai thượng sĩ Mỹ, một sĩ quan Pháp và hai người Việt Nam.

Những nhiệm vụ mà OSS và những nhóm nhỏ của họ phải giải quyết ở Đông Dương là rất lớn. Nó bao gồm một loạt các mối quan tâm về tình báo chiến lược cũng như chiến thuật của Mỹ trên toàn Đông Dương: cung cấp các tài liệu của Nhật, tiến hành chiến tranh tâm lý, điều tra các lực lượng của Nhật, phát hiện các phi công Mỹ bị bắn rơi, các tù binh Mỹ (POW), cùng với các thông tin về tội phạm chiến tranh của Nhật Bản. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Hồ Chí Minh đã làm là: lãnh đạo sự phối hợp của Việt Minh để thu thập và chuyển thông tin cho OSS ở Trung Quốc về các lực lượng của Nhật Bản ở Đông Dương. Khi mùa hè đến thì các chuyên gia đào tạo của Patti đã giúp lực lượng tuyên truyền võ trang non trẻ của Võ Nguyên Giáp xây dựng và đào tạo hai đơn vị tác chiến đặc biệt đầu tiên của Việt Minh. Để giúp cho việc lập kế hoạch các hoạt động của OSS, có rất nhiều hồ sơ từ Côn Minh liên quan đến các cá nhân và tổ chức mà OSS đã gặp và sẽ có khả năng gặp.

Sau khi đến Côn Minh, Patti đã kết luận rằng: Hai tổ chức chính trị lớn khác là Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng hoàn toàn thân Nhật không đáng tin cậy vì một bộ phận của VNQDĐ đã có quan hệ với cơ quan tình báo quân sự Nhật trước khi Patti đến Việt Nam. Quốc dân đảng là phái thân Trung Quốc hoạt động chủ yếu ở Bắc Việt và theo mẫu hình của Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (QDĐ), Patti đã phát hiện ra rằng: những đảng viên của Quốc dân đảng mà ông ta tiếp xúc và làm việc đã cung cấp thông tin về những hoạt động của ông ta cho cả Trung Quốc và Pháp. Patti cho rằng những hoạt động trên đã loại trừ các nhóm, vì những lợi ích chính trị của họ đi ngược lại với những lợi ích của Mỹ, ra khỏi việc liên minh với OSS, nếu không thì các mục tiêu tình báo của Mỹ sẽ bị tổn hại.

Khi Đức chuẩn bị đầu hàng thì rất nhiều nhân viên tác chiến của OSS đã được cử đến Côn Minh. Theo Patti thì vấn đề cơ bản là phải thuyết phục các sĩ quan trẻ, hăng hái đọc tất cả các tài liệu gốc và nghiên cứu kỹ trước khi ra chiến trường, giống như là họ đang ở trên chiến tuyến nước Pháp.

Vào cuối tháng 8, Patti đến sân bay Gia Lâm, Hà Nội để giải quyết vấn đề đầu hàng của Nhật. Đến sau là Lucien Conein, một sĩ quan có trình độ, một nhà ngôn ngữ gốc Pháp, mới được chỉ định vào lực lượng OSS ở Côn Minh. Đầu tháng 9, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và tuyên bố chính thức thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà lâm thời. Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông ở miền Nam Việt Nam được Việt Minh đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. (1)

Một cái tên đầy ý nghĩa dù chỉ tồn tại ngắn ngủi, chủ yếu là trên giấy tờ chứ chưa phải trên thực tế.

Theo Patti thì cái chết của Tổng thống Roosevel năm 1945 là kết thúc quan hệ ngắn ngủi của Mỹ đối với nước Việt Nam độc lập của Hồ Chí Minh. Các mối quan hệ của Hồ Chí Minh với Mạc Tư Khoa bị Washington coi như là dấu hiệu bành trướng của sự cấu kết Cộng sản quốc tế rộng lớn đang đối chọi với Mỹ. Những hành động của Mỹ cùng với các liên minh lục địa của mình trong việc xây dựng lại một Châu Âu đã bị chiến tranh tàn phá-kể cả nước Pháp đồng nghĩa với việc Washington tạm thời chấm dứt kêu gọi độc lập cho các nước thuộc địa của Châu Âu. Cuối tháng 10 năm đó, Patti và các sĩ quan OSS khác rời Việt Nam và những lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho chính quyền Truman không được trả lời. Mùa xuân tiếp theo, quân đội Pháp quay trở lại để giành lấy thuộc địa của mình ở Đông Dương.

Năm 1952, Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến tranh với Việt Minh đã phải nhường lại cho lực lượng Việt Minh phần lớn các khu vực miền núi ít người ở Bắc Việt. Vào thời điểm đó, đa phần cán bộ Việt Minh không thuộc đảng cộng sản đã rời bỏ Việt Minh. Lúc ấy có một sĩ quan Mỹ trẻ, lần đầu đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ. Anh ta đã kể lại những ấn tượng và nhận xét của mình trong năm 1952 ở Bắc Việt như sau.

“…Quan điểm chính thức của những người ở Bộ Ngoại giao Mỹ là ủng hộ đường lối thân Pháp, ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đại sứ Mỹ thời kỳ này là Donald Heath tỏ ra trung thành với chính sách đó. Vì vậy có sự xung đột giữa phó trưởng đoàn ngoại giao (DCM) và đại sứ. Mỗi khi đại sứ xuống các địa phương hay đi đến một trong những nước mà mình phụ trách như Lào và Campuchia, thì Gullian liên tục đánh điện về Mỹ báo cáo những vấn đề bất đồng với đại sứ. Sao ông ta lại có thể làm những điều đó được? Bởi vì ông ta được Dan Adeson ủng hộ.

Pháp hiểu tương đối rõ về Việt Minh và các chiến thuật của Mặt trận thống nhất mà Việt Minh đang sử dụng, đó là một liên minh của các nhóm khác nhau. Đối với đảng Đại Việt, họ là những người hoàn toàn bị lừa gạt bởi ý tưởng là Nhật sẽ trao độc lập cho họ. Đảng Đại Việt trung thành với Nhật Bản, bởi vì Nhật nói rằng: khi nào chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, thì lập tức họ sẽ được độc lập. Vì vậy, họ trở thành Đảng cánh hữu, Đảng lớn nhất, lớn hơn tất cả những Đảng còn lại, kể cả Việt Minh. VNQDĐ được gọi là một biến tướng ở Việt Nam của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ có rất nhiều đảng viên và cơ sở.

Pháp và Việt Minh có những mục tiêu giống nhau đối với Việt Nam Quốc dân đảng. Mục tiêu của Việt Minh rõ ràng là loại trừ càng nhiều càng tốt những nhóm người theo chủ nghĩa dân tộc, và họ không tìm cách hợp tác với Pháp.

Pháp muốn loại trừ VNQDĐ bởi vì VNQDĐ có nhiều khả năng cầu cứu các nước Phương Tây kể cả Mỹ, bởi họ là những người theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy. Pháp rất quan tâm đến việc loại trừ họ vì Pháp muốn chính mình chiến đấu với Việt Minh cũng như đóng vai trò là bức tường thành chống lại sự xâm nhập của Cộng sản trong khuôn khổ của Châu Âu.

Vì vậy việc chống lại Việt Minh dễ dàng hơn là chống lại VNQDĐ-một Đảng được coi như là một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc thực thụ. Do đó, cả Pháp và Việt Minh dù muốn hay không trong thực tế đã cộng tác với nhau, đấu tranh để loại trừ VNQDĐ-một Đảng được coi là có khả năng đứng vững.

Trước khi đạt điều đó thì trong chúng tôi có rất nhiều người ủng hộ quan điểm dàn xếp với VNQDĐ và thuyết phục chính quyền Mỹ một lần nữa suy nghĩ về vấn đề ủng hộ Pháp và tiếp tục cuộc đấu tranh chống Việt Minh đồng thời ủng hộ những người theo chủ nghĩa dân tộc thực thụ. Tôi ủng hộ quan điểm này và cả Edmond Gullian là người của sứ quán Mỹ cũng ủng hộ. Vì những quan điểm này, trước tiên giúp chúng tôi thiết lập một mối liên lạc dưới hình thức bí mật và sau đó là việc xâm nhập vào tổ chức của VNQDĐ. Vì vậy, họ rất hiểu chúng tôi và chúng tôi cũng rất hiểu họ.

Cuộc tranh luận này đã kéo dài giữa đại sứ Mỹ và những người ở Washington với Ed.Gullian, người được những nhân viên tình báo dạng như tôi ủng hộ. Theo tôi thì ở chừng mực nào đó, nó còn được tiếp tục tranh luận ở Washington . Nhưng các áp lực thì quá lớn. Quyết định không can thiệp… VNQDĐ đã mất đi tính liên kết tuy nó vẫn là một tổ chức, nhưng không còn là một tổ chức mạnh nữa(2). Vì vậy chỉ còn một cách lựa chọn khác là công giáo.

-----------
(1). Ở đây tác giả đã có nhầm lẫn về việc đổi tên thành phố SG thành Thành Phố Hồ Chí Minh năm 1945.
(2). Đoạn này người dịch có lẽ không dịch đủ ý, nhưng có thể hiểu là sự lúng túng của Mỹ trong việc lựa chọn một lực lượng chính trị nào đó mà có thể điều khiển được và là không cộng sản.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:51
Tôi nghĩ công giáo đã không được tiếp cận một cách đúng đắn. Mà thực tế phong trào công giáo rất có kỷ luật ở Việt Nam. Họ có thể được Vaticăng chú ý, nhưng ở Việt Nam thì chưa hẳn đã như vậy. Trong thực tế thì công giáo chia làm 3 nhóm chính : Một Tổng giám mục ở Sài Gòn, một ở Phát Diệm và một ở Bùi Chu. Những nhóm này rất khác nhau và hoạt động theo những phương thức khác nhau. Những người công giáo rất trung thành với họ.
Họ có một truyền thống mạnh mẽ thậm chí rất khủng khiếp, và ủng hộ đối với những vấn đề mà trên thực tế sẽ có hiệu quả để chống lại Việt Minh.

Người sĩ quan ấy bây giờ đã về hưu kể lại rằng: năm 1952, ông ta đã được cấp trên của mình hỏi : "Liệu anh có thể làm nổ một trong những cái cầu lớn ở vùng Việt Minh không?”

Điều này đối với tôi có vẻ hợp lý, vì vậy tôi đã tổ chức một nhóm phá hoại bao gồm phần lớn là người Trung Quốc và chúng ta đã thực hiện khá tốt. Phần lớn là tôi đưa chất nổ C-3 vào. Tôi có rất nhiều C-3 dự trữ và chúng tôi phân tán ra. Những người này vận chuyển và bị Pháp bắt khi vượt qua ranh giới vào vùng của Việt Minh.Chuyện ầm ĩ cả lên, những người Pháp thì nổi nóng . . .

Bây giờ có hai vấn đề xảy ra: Pháp cử…trùm tình báo của mình….Đến Washington và gặp Bedell Smith để phản đối hành động của Patti…(3) Bedell Smith nói: "Này, các ngài đã ngăn cản chúng tôi tiến hành hoạt động bí mật, táo bạo. Nhưng chúng tôi đã thiết kế chiến dịch này để chứng tỏ cho các ngài biết rằng điều đó có thể làm được, và các ngài cần mạnh dạn hơn trong việc tiến vào khu vực của Việt Minh chứ không phải chỉ nhằm bảo vệ các khu vực thuộc địa cũ của mình…". Sau đó, tôi tìm thấy một bị vong lục do tôi viết cho cấp trên của ông ta, trong đó nói rằng chúng tôi rnuốn tiến hành hoạt động này để tạo điều kiện cho người sĩ quan trên có làm nổ được cái cầu đó hay không? Điều đó giúp ngài hiểu rõ thêm vấn đề và gửi thông báo cho Pháp biết là có thể tiến hành chiến dịch theo kiểu này.

Khi nói về cơ quan tình báo cộng sản Việt Minh người cựu sĩ quan tặc lưỡi: “tôi đối chọi với Pháp, chứ không phải với Việt Minh".

RÕ ràng ông ta đã không biết rằng: ít nhất là đã có một sĩ quan tình báo chuyên nghiệp của Việt Minh theo dõi rất sát hai nhân viên mà ông ta vừa mới tuyển mộ. Theo như thông báo thì người sĩ quan Việt Minh này là trùm tình báo của tổ chức Việt Minh ở tỉnh Thái Bình. Điệp viên nằm vùng này đã chiếm được lòng tin của hai Tổng giám mục ở địa phận Bùi Chu-Phát Diệm với cái vỏ bọc của một con chiên rất ngoan đạo. Sau đó điệp viên này đã đi theo dòng người di cư vào Nam Việt Nam và trở thành người lãnh đạo các hoạt động của lực lượng tự vệ của Tổng giám mục.

Khi người sĩ quan Mỹ tới các mục tiêu bán quân sự của mình ở đồng bằng sông Hồng phía ngoại vi Hà Nội thì người thanh niên trẻ 20 tuổi là Lê Văn Bưởi một giáo dân ngoan đạo từ miền Đông bắc Bắc Việt đã tham gia quân đội quốc gia do Pháp chỉ huy. Sau một năm đào tạo ở trường sĩ quan Thủ Đức anh ta mang lon thiếu uý làm việc trong cơ quan tình báo do thiếu tá Biler chỉ huy. Biler là tư lệnh trưởng của Pháp ở Quảng Yên-quê hương của Bưởi. Theo Bưởi kể thì: "Pháp tin tưởng vào những giáo dân trung thành. Họ là tai mắt để theo dõi cộng đồng người Việt. Khi Điện Biên Phủ thất bại, tôi là một trong những người được chọn để đào tạo ở Pháp. Mục tiêu là xây dựng một nhóm gồm những giáo dân Việt Nam ở lại trong lòng Bắc Việt sau khi Pháp rút vào 1955. Vì nhiều nguyên nhân tôi chẳng bao giờ sang Pháp cả.

Theo hiệp định Giơnevơ (năm 1954), trung uý Bưởi thuộc lực lượng quân đội quốc gia Việt Nam rút về Nam Việt Nam. Những điệp viên mà anh ta chẳng bao giờ biết đến đã ở lại Quảng Yên và các khu vực khác tại miền Bắc .

Sự đầu hàng của Pháp ở Điện Biên Phủ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ký hiệp định Giơnevơ 1954, chia cắt đất nước Việt Nam thành hai phần ở vĩ tuyến 17. Hiệp định này cuối cùng đã tạo ra hai Nhà nước ở Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc (VNDCCH) và Cộng hoà Việt Nam (CHVN) ở miền Nam. Một dải đất hẹp phân cách hai bên ở vĩ tuyến 17 gọi là khu phi quân sự (KPQS). Sông Bến Hải chảy từ Tây sang Đông cắt ngang phần lớn khu vực này. Nó là sự chia cắt tạm thời và sẽ được giải quyết thông qua Tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào 1956.

Trong vòng một tháng sau khi ký hiệp định cùng với việc Pháp có kế hoạch rút khỏi Bắc Việt trong vòng 300 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định Mỹ là kẻ thù trong một cuộc họp của BỘ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam: "Mỹ không chỉ là kẻ thù của nhân dân Thế giới, mà Mỹ còn là kẻ thù chủ yếu của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào".

Dưới sự lãnh đạo của Allen Dulles giám đốc cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), đại tá không quân Mỹ Edward Lansdale đã đến Việt Nam sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhiệm vụ của ông ta là phát động các chiến dịch bán quân sự tổ chức đội quân ngầm ở phía Bắc trước khi Cộng sản nắm quyền. Sau đó, ông ta sẽ tiếp tục giúp đỡ để dựng Ngô Đình Diệm-một người theo đạo thiên chúa làm Tổng thống Nam Việt Nam, thay thế vua Bảo Đại.

Các điệp viên Việt Nam đã được cử đến căn cứ huấn luyện điệp viên của CIA tại đảo Saipan (thuộc quần đảo Mariana ở Thái Bình Dương).

Năm 1955, Hải quân Mỹ đã giúp các điệp viên này ém sẵn ở cảng Hải Phòng (Bắc Việt) với mục đích nằm chờ cho đến khi được lệnh hành động. Vũ khí, điện đài và vàng của họ được giấu ở những khu vực mà cơ quan tình báo Cộng sản Việt Nam khó phát hiện được. Khi Việt Minh chuẩn bị tiếp quản Bắc Việt theo các điều khoản hiệp định Giơnevơ thì Nhà thờ thiên chúa giáo đã chỉ đạo cho những giáo dân trung thành của mình di cư vào Nam.

Phạm Xuân Ẩn, một người Việt Nam còn trẻ đã liên lạc với đại tá Lansdale và các nhân viên của ông ta.

Cùng tham gia lực lượng của Lansdale bên cạnh Phái bộ quân sự Sài Gòn (SMM) và tham gia một cách rất tin cẩn vào việc cài cắm các lực lượng bán quân sự Việt Nam nằm vùng được huấn luyện ở đảo Saipan là một cựu chiến binh lành nghề và là một điệp viên trá hình-thiếu tá lục quân Mỹ Lucien Conein. Nhóm của Lansdale có thể không biết Phạm Xuân Ẩn là một sĩ quan tình báo Cộng sản đã hàng chục năm nay chuyên quan tâm tới các hoạt động của Lansdale.

Đại tá Lansdale khá nổi tiếng đối với cơ quan tình báo Bắc Việt, ông ta vừa mới hoàn thành một loạt phi vụ thắng lợi được đánh giá cao trong việc chống phiến loạn Cộng sản ở Philipin. Conein cũng nổi tiếng tương tự trong các hoạt động của mình với tư cách là điệp viên trá hình dưới quyền Patti và các cơ quan tình báo phía Bắc thường xuyên giám sát các chuyến bay Sài Gòn-Hà Nội.

Khi Pháp rút khỏi miền Bắc thì họ đã cài lại một mạng lưới điệp viên rộng lớn mà đa phần là giáo dân Việt Nam. Các hồ sơ của những điệp viên nằm vùng này được chuyển về Paris ngay khi Pháp hoàn thành việc rút quân năm 1955. Sau đó một số hồ sơ này được chuyển giao cho Ngô Đình Nhu, em ruột Ngô Đình Diệm.

Các điệp viên khác của CIA thuộc đảng Đại Việt và VNQDĐ được chuyển lại miền Bắc trước khi Pháp rút khỏi Việt Nam. Lucien Conein đã kể lại chiến dịch cài cắm người như sau.

“…Tôi nhớ là có khoảng 20 điệp viên bán quân sự nằm vùng ở miền Bắc . Chúng tôi chọn họ và gửi đi đào tạo ở Philipin. Phần lớn bọn họ thuộc Đảng Đại Việt, một số thuộc VNQDĐ. Sau khi huấn luyện chúng tôi chở họ đến Okinawa. CIA bố trí cho họ quay trở lại miền Bắc bằng tàu thuỷ, vì chúng tôi không có khả năng đưa họ ra Bắc từ Philipin. Những gì mà tôi làm ở Philipin cho đại tá Ed.Lansdale không dính dáng gì tới những gì mà CIA làm ở Saipan.

Để giúp đỡ các điệp viên của chúng tôi, khi họ trở về tôi đã thiết lập những nơi tàng trữ vàng, điện đài, vũ khí và các vật dụng khác. Các điệp viên được bố trí rải rác khắp nơi chứ không tập trung ở một điểm cụ thể nào. Họ được lệnh nằm im chờ khi có lệnh mới hành động. Tôi không nhớ rõ có một điệp viên nào đào tạo ở Philipin được triệu về miền Nam năm 1956 để xem có ai bị bắt và bị khống chế rồi chống lại chúng tôi không.

Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục cử các điệp viên ra miền Bắc cho đến cuối năm 1956. Phần lớn họ đều xuất phát từ Huế và… rất ít người quay trở lại.

Một số điệp viên nằm vùng đã có lúc liên lạc được bằng điện đài từ miền Bắc, nhưng sau đó đột nhiên tất cả đều im bặt.

Dường như tất cả đều đổ vỡ. Lúc đó là năm 1956. Hiển nhiên là các điệp viên của chúng tôi đã bị bắt, nhưng tôi chẳng bao giờ biết rõ là ai đã khai báo hay đầu hàng.

Bây giờ thì tôi biết rằng, lực lượng an ninh Bắc Việt đã liên tục theo dõi giám sát chặt những chuyến bay của tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội. Nhưng việc ấy chẳng đủ để giải thích được những gì đã xảy ra. Điều đó cũng không thể dẫn tới việc cơ quan phản gián Bắc Việt có thể lần ra các điệp viên và các nơi cất giấu vũ khí, vật dụng của chúng tôi. Không phải vậy mà chắc chắn phải có một điều gì nguy hiểm hơn thế. Có lẽ là họ đã nắm trong tay toàn bộ mạng lưới và tổ chức quét một mẻ quyết định vào cùng thời điểm.”

----------
(3). Chỗ này bản dịch không rõ ý.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:51
Gilbert Layton một trong những cựu chuyên gia biệt kích của CIA đã đánh giá lại giai đoạn này như sau:
“…Nhận lệnh từ Châu Âu đến Sài Gòn vào đầu năm 1960 tôi đã được thừa hưởng một hoặc hai két sắt trong đó chứa rất nhiều tài liệu của Ed. Lansdale bao gồm các báo cáo về những kho vàng bí mật từ những năm 1955 mà nhân viên của ông đã bí mật đưa ra miền Bắc. Tôi không rõ đã có ai biết sau Lansdale và trước cả tôi không. Những báo cáo cho thấy các kho tàng trữ của Lansdale đã chôn giấu rất nhiều vàng, một số thì dưới móng nhà, trong những hố xi măng, một số được phủ băng một lượng xi măng dày từ 0,3 - 0,6 mét. Một số người ở Tổng hành dinh muốn chúng tôi cử ra một nhóm để tìm kiếm số vàng này. Theo tôi nhớ thì số vàng đó trị giá khoảng 700.000 USD vào năm 1960. Cuối cùng thì họ đã từ bỏ ý định đó.

Các điệp viên nằm vùng đã được đào tạo ở căn cứ Saipan. Đây cũng là nơi chúng tôi dung để huấn luyện cho người Trung Quốc. Tôi nhớ người Việt Nam cuối cùng được đào tạo ở Saipan là một ông già nhỏ bé. Sau đó được đưa ra miền Bắc và ông ta đã mở một xưởng sản xuất pháo. Khốn nỗi là một lần xưởng đó bị nổ tung và ông ta đã bị chết.”

Khi Lansdale thực thi nhiệm vụ của mình ở Sài Gòn trong những năm 1955-1956 thì Tổng thống Diệm đã củng cố được quyền lực của mình ở Việt Nam Cộng hoà để chống lại các lực lượng đối lập rất rộng lớn bao gồm các giáo phái, tội phạm hình sự và Cộng sản nằm vùng. Đảng Lao động Việt Nam cũng hoạt động rất tích cực ở đó. Các đường lối đưa từ Bộ Chính trị ở Bắc Việt vào cho Lê Duẩn là đại diện ở miền Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định đã định hướng cho phong trào Cộng sản sau khi Pháp rút vào năm 1955.

Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định rằng không nhất thiết tất cả mọi người phải tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Những cán bộ trung thành của Đảng được lệnh ở lại hoạt động bí mật. Rất nhiều tổ chức quần chúng Việt Minh trước kia xuống đường ủng hộ phong trào Cộng sản trong những năm chiến tranh đã bị giải tán trên giấy tờ nay nổi dậy hoạt động dưới hình thức các nhóm chính trị đối lập với Diệm. Những vũ khí trước kia sử dụng để chống lại Pháp nay được cất giấu để phục vụ cho cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Diệm. Người nằm vùng đã tổ chức thành các tổ, hoặc đơn vị vũ trang cấp tiểu đội, trung đội. Rất nhiều đơn vị tự xưng là tiểu đoàn, mặc dù con số của họ không quá 40 người. Tên của các đơn vị này thường được gắn với tên của các tổ chức phi Cộng sản đối địch với Diệm như Cao Đài, Bình Xuyên, Hoà Hảo.

George Carve là một sĩ quan CIA ở Sài Gòn cho đến năm 1960 và là một chuyên gia phân tích tình báo cao cấp của CIA về các vấn đề Việt Nam. Đối với chiến tranh Việt Nam lần thứ hai ông ta đã đưa ra dự đoán của mình về những thách thức trong giai đoạn này:

“…Người ta rất lo lắng về hiệu ứng Domino và nếu những người Cộng sản Việt Nam chiếm toàn bộ đất nước thì họ sẽ nhanh chóng gây áp lực đối với Lào và Campuchia và cả đối với Thái Lan nữa. Điều này đối với các nhà lịch sử theo trường phái xét lại hiện nay thì rất buồn cười, nhưng thời đó lại chẳng buồn cười chút nào. Còn những người được hưởng phần lợi trong đó thì chắc sẽ chẳng bao giờ coi nó là buồn cười cả, vì tôi đã nghe những người Singapo, Thái Lan và một số nơi khác nói rằng: Những thành tựu về mặt chính trị cũng như kinh tế trong các nước còn lại ở Đông Nam Á sẽ không thể nào phát triển được nếu chúng ta không khống chế nổi những người Cộng sản Việt Nam.”

Có một sự mong muốn lớn trong giai đoạn sau hiệp định Giơnevơ là không để cho quyền lực của Cộng sản phát triển bằng vũ lực ở miền Nam Việt Nam.

Các điều khoản trong hiệp định về tuyển cử đã được nhất trí, ngoại trừ một rắc rối là việc Pierre Mendes, Thủ tướng Pháp không chấp nhận công bố thời hạn cuối cùng của giải pháp, đó là việc quyết định chọn vĩ tuyến 17 chứ không phải vĩ tuyến 16 mà lẽ ra phải như vậy.

Lúc này, miền Bắc có lợi thế số dân lớn hơn miền Nam khoảng 2.000.000 người trước khi cuộc bỏ phiếu lần đầu được tiến hành. Như vậy, mặc nhiên họ sẽ giành được 99.9% số phiếu.

Cũng do Diệm không muốn bị tự sát về chính trị nên đã tiến hành những biện pháp cứng rắn hữu hiệu của mình.

Diệm đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thanh trừng những người Cộng sản nằm vùng. Nhất là những thành viên của bộ máy lãnh đạo Đảng Lao động phụ trách phía Nam Việt Nam thuộc Xứ uỷ Nam Kỳ đã lặng lẽ rút khỏi miền Nam vào năm 1956, đến một cơ sở an toàn hơn ở Nông Pênh-Campuchia. Ở đó, họ có thể đi lại một cách an toàn bằng máy bay giữa Nông Pênh và Hà Nội. Một số cán bộ Đảng ở miền Trung cũng bắt đầu rút ra miền Bắc bằng cách vượt sông Bến Hải hoặc đi qua Lào. Người lãnh đạo bộ phận phía Nam của Đảng-Lê Duẩn đã phải đối đầu với một cuộc đấu tranh chính trị kéo dài với Diệm và không đạt kết quả.

Việc ủng hộ của Mỹ đối với Diệm đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác về sự đe dọa thực sự của Cộng sản để đưa ra một kế hoạch toàn diện và chặt chẽ nhằm giúp đỡ Việt Nam, bao gồm cả việc giúp đỡ về mặt quân sự do Washington đầu tư thông qua chương trình an ninh và tương trợ lẫn nhau (MASP). Xuất hiện các quan điểm khác nhau liên quan đến bản chất cũng như mức độ của mối đe doạ chưa kể đến trình độ và phẩm chất lãnh đạo của Diệm.

Một tổ chức thông tin tình báo về các lực lượng đối lập với Diệm đã được thành lập do tổ chức tình báo ngầm của Diệm hoạt động ngoài dinh Tổng thống. Tổ chức này do bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Huế phụ trách và chủ yếu dựa vào lực lượng giáo dân để tiến hành các hoạt động gián điệp cho Diệm. Một phần khác của lực lượng an ninh thuộc cơ quan an ninh của Diệm là lực lượng hoạt động bí mật cũng do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách mang tên Sở liên lạc do đại tá Lê Quang Tung phụ trách hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng thống Diệm. Tổ chức của bác sĩ Tuyến có thể cầu viện sự giúp đỡ của công giáo trung thành ở cả trong và ngoài chính phủ. Lực lượng của bác sĩ Tuyến tiến hành các hoạt động bí mật và thu thập các thông tin tình báo. Ngoài ra, tổ chức đó còn cài cắm những người có trình độ và năng lực mà bác sĩ Tuyến thấy cần cho các hoạt động tình báo được tiến hành trong toàn bộ Nam Việt Nam và ở một số nước láng giềng.

Bác sĩ Tuyến đã bố trí các nhân viên của mình liên minh với một Đảng chính trị bí mật mới thành lập là Đảng Cần lao Nhân vị do Tổng thống Diệm chỉ đạo.

Một trong những người em của Diệm là Ngô Đình Cẩn đã chỉ huy tổ chức tình báo riêng của mình và trực tiếp lãnh đạo Đảng bí mật thực hiện các hoạt động tình báo của giáo dân ở Huế, nơi mà ông ta có nhiệm vụ làm cố vấn cho Diệm đối với khu vực miền Trung Việt Nam. Vì sự chia cắt về mặt không gian giữa hai anh em, nên bác sĩ Tuyến báo cáo cho Tổng thống của mình qua Ngô Đình Nhu. Sự gần gũi về mặt không gian giữa Nhu và Diệm đã tạo nên một sự đối địch tất nhiên giữa ông ta với Cẩn. Một sự cạnh tranh không phải là không lường trước được đối với quyền lực và sự quan tâm.

Thành viên và mạng lưới thành viên Đảng Cần lao đã nhanh chóng trở thành phương tiện để những người ủng hộ trung thành với Diệm nhận được những hợp đồng béo bở của chính phủ và các lợi ích tài chính trực tiếp khác do đã thể hiện sự trung thành ủng hộ Diệm. Vào cuối những năm 50, điều này dẫn đến những lời buộc tội rằng: sự viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà chủ yếu rơi vào túi của những thành viên Đảng Cần lao.

Những nhu cầu của cộng đồng tình báo Mỹ đã được đáp ứng bởi một loạt các nhân viên tình báo quân sự và dân sự làm nhiệm vụ thành lập và xử lý thông tin đã cung cấp được những thông tin tình báo cần thiết. Cựu trùm tình báo CIA ở Việt Nam, William Colbly đã kể lại những nguyên tắc hoạt động với những người Nam Việt Nam như sau:
“…Ngô Đình Cẩn chỉ huy lực lượng độc lập của mình ở Huế. Đấy là vấn đề kinh doanh của ông ta. Vì vậy, nếu bạn cần làm việc ở Huế thì phải bàn với ông Cẩn. Còn nếu bạn muốn làm ở khu vực còn lại của Nam Việt Nam thì phải bàn với ông Nhu. Có một số sự cạnh tranh tự nhiên giữa các nhân viên của hai phía. Diệm thì có ý kiến rất tốt với Cẩn. Cẩn có một số ý tưởng rất xuất sắc.

Đối với CIA thì kênh chỉ huy là người Việt Nam thông qua Tuyến và Lê Quang Tung.

Chúng tôi có những quan chức chính phủ giúp đỡ, nhưng họ vẫn là những người quyết định chủ yếu còn chúng tôi chỉ đóng vai trò cố vấn, xem xét các vấn đề. Một trong những triết lý của tôi là luôn luôn coi họ là những người chỉ huy. Không nên có ý định giành mất quyền của họ, bởi vì điều đó sẽ làm họ có mặc cảm bị lãnh đạo tạo ra những phản ứng ngầm bất lợi.

Tôi chưa hề gặp Ngô Đình Cẩn. Thực tế thì ông ta không bao giờ đến các cuộc họp. Trên lý thuyết, tôi làm việc với ông ta trong nhiều năm và một số nhân viên của tôi cũng thế, nhưng họ không bao giờ gặp ông ấy cả. Tôi nghĩ rằng tôi là người duy nhất thích ông Nhu. Đại tá Tung là con người tế nhị nhất mà tôi gặp từ trước tới nay.


Trong Sở Liên lạc của bác sĩ Tuyến có phòng 45 do đại uý Ngô Thế Linh, một sĩ quan quân đội hoạt động dưới cái tên "ông Bình", phụ trách. Đại uý Linh chịu trách nhiệm về các hoạt động bí mật chống Bắc Việt Nam và các hoạt động ở các nước láng giềng Lào Campuchia. Khi cần có điệp viên. họ liên lạc với những Giám mục có thế lực của Công giáo để tìm những người cần thiết, rồi giới thiệu cho các nhân viên của bác sĩ Tuyến. Những người tỏ ra có khả năng thì được tuyển dụng. Đối với những yêu cầu về con người và kỹ năng quân sự thì đại tá Tung chịu trách nhiệm về bộ máy quân sự của Việt Nam Cộng Hoà. Đại uý Lê Quang Triều-em của đại tá Tung phụ trách Văn phòng hành chính của Sở Liên lạc dưới hình thức chỉ huy một đại đội trong đơn vị phòng vệ Phủ Tổng thống mà các điệp viên tương lai thường được cử vào đó để che giấu những hoạt động bí mật của mình.
Năm 1956, Sở Liên lạc yêu cầu cung cấp các thuyền gỗ để đưa các điệp viên và vật tư ra Bắc, cũng như từ Bắc trở vào. Cuối năm đó, một nhóm 6 người Việt Nam phần lớn độ tuổi 20, tất cả đều sinh ra ở tỉnh Quảng Bình-phía Bắc khu phi quân sự, đã được tuyển từ nhà thờ công giáo ở cảng Nha Trang để tham gia lực lượng Hải quân mới này. Cuối cùng, lực lượng Sở phòng vệ Duyên hải là lực lượng hải quân bí mật được bố trí trà trộn trên những chiếc thuyền mà các ngư dân miền Bắc của họ thường sử dụng và hình như lực lượng an ninh Bắc Việt không phát hiện ra điều này.

Sự giúp đỡ của CIA và Lầu Năm góc đối với các hoạt động ra phía Bắc của Sở Liên lạc được tiến hành thông qua Liên đội quan sát số 1. Một đơn vị quân sự do đại tá Tung chỉ huy, được xây dựng vào 1956 với sự giúp dỡ của CIA. Nó có nhiệm vụ xây dựng lực lượng nằm vùng trong trường hợp miền Nam Việt Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Bộ máy quân sự được cử đến Liên đội 1 với mục đích hành chính nhưng thực tế lại tiến hành các hoạt động tình báo do Sở liên lạc chỉ đạo. Thậm chí cuối năm 1958, đơn vị vẫn còn phải giấu các vũ khí và lực lượng nằm vùng chủ yếu vẫn là trên giấy tờ, chứ không phải trên thực tế.

Một nguồn tin tình báo khác của Washington là tổ chức việc mã thám các liên lạc vô tuyến của Hà Nội, nguồn thông tin mà độ tin cậy được xác nhận là cao nhất. Việc thu các liên lạc vô tuyến của miền Bắc từ năm 1955 chủ yếu là dựa trên một bộ phận mã thám của Pháp được triển khai ở Nam Việt Nam trước đó với 5 đội dã chiến dàn trải trên lãnh thổ Việt Nam và Lào để do thám thông tin đối phương trong và sau khi cộng sản rút ra miền Bắc năm 1955. Với sự giúp đỡ của Mỹ, nhóm công tác của Pháp ở lại trong khi các lực lượng khác của Pháp rút khỏi Nam Việt Nam vào năm 1956. Pháp đã chia sẻ kết quả các hoạt động mã thám của họ với Mỹ để đổi lấy thông tin của Mỹ về các máy phát vô tuyến của Bắc Việt, thông qua các thiết bị dò thông tin vô tuyến của Mỹ. Đến giữa năm 1957 thì nhóm hoạt động của Pháp rút.

Kết quả của thông tin tình báo nhận được khẳng định: Các máy phát vô tuyến Cộng sản vẫn hoạt động ở miền Nam và liên lạc trực tiếp với Hà Nội. Điều này thể hiện rõ ràng rằng: Các lực lượng Cộng sản Việt Nam chưa rút hết khỏi Nam Việt Nam và lực lượng bí mật của Cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại. Chẳng hạn như các thông tin vô tuyến từ Hà Nội năm 1958 xác nhận hai cơ quan đầu não ở Nam Việt Nam. Một ở phía Tây Đà Nẵng đối với Cộng sản Liên khu 5 phụ trách miền Trung Việt Nam, và một cơ quan đầu não khác phụ trách đồng bằng phía Nam, nằm ở phía Tây Sài Gòn, gần biên giới Campuchia. Trạm Tây Đà Nẵng giữ liên lạc liên tục với các đơn vị bằng cách xâm nhập gián tiếp từ Bắc vào Nam. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cam kết ủng hộ cách mạng miền Nam nhưng nhu cầu bức bách hơn đối với miền Bắc là củng cố sự kiểm soát của mình và bắt đầu quá trình quản lý một Nhà nước mới giành được. Tuy nhiên đó cũng là thời kỳ mà giới lãnh đạo ở miền Nam, bao gồm Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo cao cấp khác như Nguyễn Văn Linh-phụ trách đồng bằng Nam BỘ và Võ Chí Công-phụ trách vùng bờ biển dân cư thưa thớt ở miền Trung Việt Nam, cần sự giúp đỡ hơn là những lời nói chính trị mĩ miều.

Ba người này, cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó, biết quá rõ về những thành công của Tổng thống Diệm bởi vì vào thời kỳ 1958 tổ chức Đảng Cộng sản ở miền Nam bị tan rã. Từ một lực lượng (theo như báo cáo) có khoảng 60 nghìn đảng viên ở khu vực đồng bằng đông dân cư năm 1954, đã giảm xuống còn khoảng 5 nghìn. Tệ hại hơn là 70% các tổ chức Đảng cơ sở từ cấp huyện trở lên ở miền Trung đã bị phá vỡ. Vấn đề nan giải ở đây là có quá nhiều người lãnh đạo chính trị và quá ít quần chúng.

Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo khác ở miền Nam nắm rất rõ chính sách của miền Bắc trong ba năm đầu sau khi chia cắt đất nước. Nhưng khi mà tổ chức Đảng ở miền Nam bị tan rã, cần phải có một sự thay đổi cơ bản về mức độ ủng hộ cách mạng miền Nam nếu Bộ Chính trị của Hà Nội muốn giữ vững niềm tin trong dân chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề mà Đảng cần lúc đó là một giải pháp truyền thống giống như các giải pháp khác đã huy động được người dân Việt Nam trong quá khứ. Đó là: một lực lượng quân sự nước ngoài hiện diện ở Việt Nam có thể coi như là sự xâm lược.

Năm 1958, Lê Dụẩn được gọi về giữ cương vị xứng đáng trong hoạt động thường ngày của Bộ Chính trị Đảng Lao động và lúc này ông ta đã có thể vạch rõ sự thất bại ở miền Nam. Trong khi thực hiện lời kêu gọi của Đảng tiến hành đấu tranh chính trị đúng vào thời kỳ mà tổ chức Đảng ở miền Nam đang bị thoái trào. Ông ta khẳng định rằng năm 1956 ông đã không nhận được chỉ thị gì của Hà Nội về việc phát động lại phong trào đấu tranh vũ trang.

Chủ tịch HỒ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác đã coi Mỹ là kẻ thù chính. Nhưng vào cuối những năm 1950 còn có quá ít người Mỹ ở Nam Việt Nam để chứng tỏ rằng Mỹ xâm lược Việt Nam. Một điều may mắn đối với Hà Nội là lúc đó bắt đầu kỷ nguyên giải phóng dân tộc nên Hà Nội gặt hái được sự giúp đỡ của nước ngoài. Với Lê Duẩn đứng sau, Bộ Chính trị đã được thuyết phục rằng đây là thời cơ để tiếp tục kêu gọi đấu tranh cho quan điểm của Đảng về một nước Việt Nam Cộng sản thống nhất.

Tại thời điểm này, Đảng gặp phải một hạn chế lớn trong nỗ lực nhằm phát động lại cuộc cách mạng đã bị đình trệ ở miền Nam. Đảng có cách nhìn và lực lượng nhưng thiếu vũ khí và vật tư cần thiết để xây dựng, phát triển và giữ được xung đột dưới một trạng thái chính quy chứ không phải là những xung đột lẻ tẻ chống lại chính quyền Diệm. Đảng cũng vấp phải một thực tế là sự đàn áp mạnh mẽ năm 1956 và những sai lầm trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách ruộng đất.

Tuy nhiên, tháng 11 năm 1958, theo báo cáo cho biết thì một chỉ thị được chuyển từ Hà Nội với nội dung là phải "chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang". Chỉ thị này thực tế là bản sao trước của quyết định chính thức sẽ được Bộ Chính trị biểu quyết vào tháng 1 năm 1959 và sẽ được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc vào cuối năm 1960.

Trong khi các chỉ thị được chuyển vào Nam thì cơ quan tình báo Bắc Việt chuẩn bị một điệp viên khác để phái vào Nam vời nhiệm vụ bí mật có tầm quan trọng không kém. Điệp viên này trong hồ sơ hoạt động của cơ quan tình báo Mỹ được biết dưới mật danh ARES, ARES đến miền Nam vào đúng thời điểm Colby, một sĩ quan CIA đóng ở Roma và là một cựu chiến binh OSS của chiến tranh thế giới lần thứ II cũng đến miền Nam.

ARES và Colby với những nguyên nhân hoàn toàn khác nhau, đã đóng vai trò trong nấc thang chiến tranh này.

------o0o------
(Hết mục 1).

Vài lời của meofmaths:
- có cảm giác là người dịch và biên dịch quyển sách này không được cẩn thận lắm, nhiều đoạn khá "mờ" nghĩa.
- nếu huynh đệ nào phát hiện sai lỗi chính tả hay có góp ý gì làm ơn pm cho meofmaths.

2.NHỮNG ĐIỀU NAN GIẢI.

 Tháng 8 năm 1958, Tổng thống Diệm lại một lần nữa yêu cầu sự giúp đỡ của Mỹ để tiến hành các hoạt động bí mật chống lại những người cộng sản Việt Nam. Những cuộc hội đàm của ông ta với cơ quan tình báo Mỹ xảy ra đúng vào lúc mà các tùy viên quân sự Mỹ ở Sài Gòn yêu cầu phải có sự can thiệp của chuyên gia tình báo trong các chiến dịch phối hợp với chính quyền Diệm. Điều này trùng hợp với yêu cầu của Diệm là mong muốn Washington giúp đỡ về mật mã. Ông ta đã nhận được sự giúp đỡ đó của CIA, nhưng ở các lĩnh vực khác thì chưa có gì.
Suy nghĩ của Mỹ tại thời điểm đó là mặc dù các đề nghị phối hợp hoạt động bí mật tuy đã được đặt ra nhưng đây là lúc thích hợp có thể áp dụng đối với Bắc Việt Nam. Điều này dẫn tới sự nhất trí về nguyên tắc đối với CIA và chính quyền Diệm là tiến hành các hoạt động tình báo chung chống lại Bắc Việt vào năm 1958. Trạm CIA ở Sài Gòn đã trở thành quan hệ chính thức từ 1-1-1959, một tháng trước khi Colby đến Sài Gòn.

Colby đã kể lại một cách rất rõ ràng giai đoạn này: “… Khi tôi đến đó thì đang thực hiện quyết định từ năm 1956 là ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm chứ không có tuyển cử và biến Nam Việt Nam thành một nước độc lập nên chúng tôi làm việc đó tương đối thuận lợi. Chương trình viện trợ được tiến hành một cách trôi chảy. Diệm không phải là người ưa chuộng dân chủ về lâu dài nên đã tổ chức đàn áp tương đối thành công những người cộng sản ở Nam Việt Nam. Họ đã chuyển các cán bộ của mình ra Bắc để đào tạo một cách lặng lẽ. Giờ đây thì họ đã thú nhận nguyên nhân thành lập đoàn vận tải 559. Đoàn đã xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh nên gọi là đoàn 559 bởi vì nó bắt đầu vào tháng 5-1959. Đây là thời điểm mà họ quyết định phát động cuộc chiến tranh và tiến hành khử một vài xã trưởng ác ôn hoặc làm những việc tương tự như tổ chức lực lượng trong dân chúng, xây dựng mạng lưới linh hoạt đợi thời điểm thích hợp thì sẽ hành động.

Phản ứng của chính phủ chúng ta lúc đó có vẻ như là tăng cường vũ lực và tiếp đó là sự phân biệt quan điểm giữa Bộ Ngoại giao và BỘ Quốc phòng: có nghĩa là chúng ta có cần phải xây dựng một lực lượng quân sự mạnh như Bộ Quốc phòng hay theo quan điểm của Bộ Ngoại giao là mở rộng dân chủ. Mâu thuẫn này là tất yếu vì cả hai bên đều xuất phát từ những chỗ đứng khác nhau. Phái quân sự cho rằng muốn đối chọi với chiến tranh thì tốt hơn hết là phải xây dựng lực lượng của mình, còn viên chức Bộ Ngoại giao thì cho rằng chúng ta không thể huy động sự ủng hộ của toàn quốc nếu như không thực thi dân chủ. Điều mà tôi cho là chưa phải là tiên quyết và chưa có sức thuyết phục, nhưng đấy lại là quan điểm của Sài Gòn. Tất nhiên tiếp theo là sự lật đổ của Diệm. Tôi cho rằng đó là một bi kịch và là một sai lầm lớn nhất mà chúng ta mắc phải.

Thế nhưng trong năm 1959 chúng ta đã dần dần có định hướng rõ hơn. CIA bị áp lực phải phát triển khả năng tình báo để biết rõ được kẻ thù đang làm gì. Chúng tôi không có nhiều khả năng độc lập nên phải bàn bạc với Ban đặc biệt của Việt Nam. Những người của Diệm trong năm 1959, sử dụng hầu hết thời gian nhằm làm đảo lộn tình hình ở Campuchia và họ đã làm như vậy. Còn tôi thì đã tốn rất nhiều thời gian để khuyên họ đừng làm thế.

Đối với một số hoạt động của họ giữ được độc lập với Mỹ tôi không ngạc nhiên gì. Bởi vì chúng tôi biết hơi bị muộn đối với Campuchia, chính quyền Sài Gòn sống chết muốn làm một cái gì đó với Sihanuk (Quốc trưởng của Campuchia) và chúng tôi cũng biết rằng Sihanuk biết rất rõ những điều đó… Chúng tôi bỏ qua và khuyên nhưng họ chẳng hề mảy may quan tâm đến lời khuyên của chúng tôi. Họ muốn tự làm điều đó và cuối cùng thì họ phải gánh chịu thất bại.

Các sỹ quan mà chúng tôi cử làm việc với người Việt Nam đều ăn mặc đồng phục nhà binh. Một trong số đó là Gilbert Layton-chỉ huy bộ phận làm việc với lực lượng an ninh biên giới. Tôi cũng có một sĩ quan khác là Russel Miller trực tiếp phụ trách những hoạt động đối với Bắc Việt. Chẳng bao lâu một trong những vấn đề được đặt ra tại sao chúng ta không làm với họ như chúng ta đã làm với Bắc Việt Nam. Chúng tôi nhớ lại kinh nghiệm trong chiến tranh thế giới thứ 2 đưa người vào bằng cách thả dù hoặc những việc tương tự đã làm ở đó.

Khoảng một năm sau chúng tôi thiết lập cơ quan mới gọi là Phủ Đặc uỷ Trung ương tình báo nhằm cung cấp những thông tin về trung tâm nơi mà chúng tôi có thể tiếp cận với họ. Chúng tôi tổ chức một cơ quan thẩm vấn chỉ xét hỏi những nhân vật cấp cao bị bắt chứ không phải với những cán bộ bình thường. Chúng tôi cố gắng đào tạo các nhân viên tác chiến hoặc các vấn đề tương tự để xem họ tiến hành hoạt động này như thế nào nhưng thành công chưa nhiều.

Chúng tôi bắt đầu đào tạo lực lượng không quân cho Việt Nam Cộng hoà để tiến hành các chuyến bay kiểu này. Đại tá Nguyễn Cao Kỳ là chỉ huy trưởng Không vận, nên ông ta đã đảm nhận việc đó. Chúng tôi cũng lấy một vài phi công từ hàng không Trung Quốc (CAL) từ Đài Bắc để giúp đào tạo họ. Chúng tôi thiết lập một bộ phận liên quan ở Việt Nam với cái tên là Hãng Vận tải hàng không Việt Nam (VIAT) để làm vỏ bọc cho hoạt động đó. Nó được làm giống như Hãng Vận tải hàng không Trung Quốc-Đài Loan (CAT) chỉ có điều là nó không trực thuộc Hãng hàng không Mỹ như CAT. Nó là sở hữu của hãng CAL Đài Loan (China Air Lines). Thật ra tôi muốn có mối quan hệ phong phú hơn đối với những người Việt Nam thay cho việc chỉ quan hệ với những người CAS2 và Hãng hàng không Mỹ mà tôi cho là đã được đặt tên giả. Nếu bạn muốn có một công ty tư nhân để núp dưới đó, thì bạn không nên gọi nó là hãng Hàng không Mỹ.

Tiếp đến chúng tôi đào tạo một vài lực lượng hải quân mới. Bạn biết rằng cần phải đổ bộ lên bờ biển, rút lui, phá hoại hoặc tiến hành những việc tương tự. Vì vậy cần phải nghĩ tới việc đưa người và điện đài vào đất liền để liên lạc.

Tôi không còn nhớ khi chúng tôi tiến hành chiến dịch đầu tiên vào khi nào, nhưng có thể vào khoảng đầu năm 1961. Kỳ kiên quyết đòi bay chuyến bay đầu tiên mặc dù như thế là vi phạm nguyên tắc nếu để ông ta bay. Nhưng ông ta cứ khăng khăng đòi lên máy bay và ra Hà Nội. Ông ta nói: "Tôi là chỉ huy trưởng. Tôi sẽ bay chuyến đầu tiên".

Liên đội quan sát 1 là lực lượng quân sự đặc biệt của Mỹ và nhiệm vụ trước tiên của nó là đào tạo cho Không lực Việt Nam Cộng hòa. Họ đến chính là để làm việc đó. Còn CIA chúng tôi thì chẳng có liên quan gì tới việc này. Mãi sau này, chúng tôi mới có quan hệ với Liên đội quan sát 1. Chúng tôi bị bắn rơi một chiếc máy bay vào tháng 7-1961. Chúng tôi đã giữ liên lạc với họ khi bay vào vùng bờ biển phía Bắc Việt Nam. Miền Bắc đã công bố vụ xâm nhập này. Chúng tôi đã tìm mọi cách để phủ nhận nhưng sự việc không đơn giản thế, nếu nói rằng vụ này không dính dáng gì tới chúng tôi thì nó còn là của ai nữa. Tôi không cho rằng đã xảy ra một vấn đề gì đó quá nghiêm trọng. Nhưng sự thực thì chúng tôi đã bị người ta bắt vì làm gián điệp ở một đất nước khác. Tôi không nghĩ rằng có một vấn đề gì đó quá rắc rối về mặt chính sách, bởi vì chúng tôi đã thống nhất về mặt chính sách với nhóm đặc biệt hỗn hợp-Ban 5413. Đề nghị đầu tiên của chúng tôi gồm việc triển khai hoạt động ra phía Bắc và cả phía Nam đã được họ chấp nhận. Lúc đó là tháng 11/1960. Vì vậy, khi tiến hành công việc chắc chẳng có vấn đề gì trục trặc lớn về khía cạnh chính sách.

Theo thiếu tá Lê Văn Bưởi lúc đó ở Huế từ 1959-1961 thì đã có một sự công phẫn trong các sỹ quan Việt Nam vì họ cho rằng những cố gắng của CIA là nhằm đạt được một thoả hiệp chung là bắt liên lạc với tất cả các điệp viên trong tổ chức của bác sĩ Tuyến. Bưởi coi vấn đề đó thiên về mặt kiểm soát hơn là để chia sẻ: "CIA định tiếp quản tất cả các điệp viên của chúng ta, và liệu chúng ta sẽ định giữ ai?” Họ cứ đòi chúng ta cung cấp cho họ ngày càng nhiều các điệp viên nằm vùng mà chúng ta đã tiếp nhận từ tay người Pháp. Liệu Pháp đã đưa cho chúng ta tất cả những gì mà họ đã xây dựng không? Không, tất nhiên là không. Nhưng cái gì đã có thì chúng ta nhất thiết không muốn chia sẻ.

William Colby đã không ngạc nhiên: "Tôi không thể kể chi tiết cho bạn nghe về vấn đề đó, nhưng nó có vẻ đúng".

Tại Hội nghị lần thứ 15 của Bộ Chính trị Đảng Lao động tháng 1 năm ấy đã đưa ra quyết định chính thức tăng cường hoạt động của cộng sản ở miền Nam Việt Nam và đưa cách mạng tiến lên, như vậy là đã chuyển nó từ một cuộc đấu tranh chủ yếu là về mặt chính trị ban đầu sang đấu tranh vũ trang bằng các đơn vị vũ trang song song với các hoạt động chính trị của các tổ chức quần chúng thích hợp. Trong tình huống đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng: “…Cuộc đấu tranh ở miền Nam bây giờ sẽ nhằm thu hút mọi lực lượng của toàn quốc, và được coi như là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế chống lại chủ nghĩa tư bản". Đó cũng là lời kêu gọi xuống đường về mặt chính trị của Đảng đối với tất cả người dân Việt Nam.

Cũng như tất cả những quyết định chính thức, nó báo hiệu một sự thống nhất về quan điểm đã được phát động nhiều tháng trước đó. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thiếu sự ủng hộ rộng rãi và to lớn về quân sự từ khối cộng sản, mà sự ủng hộ của họ rất quan trọng đối với các kế hoạch của Bắc Việt. Tháng 5 năm đó theo lệnh của Bộ Chính trị, quân đội nhân dân đã xây dựng một nhóm nghiên cứu đặc biệt do Vỗ Bẩm, Phó trưởng ban nông nghiệp phụ trách. VÕ Bẩm có kinh nghiệm ở vùng núi miền Trung Việt Nam. Nhiệm vụ của ông ta là phát triển một đường dây cung cấp để chuẩn bị hậu cần cho cuộc chiến tranh sắp xảy ra ở miền Nam mà chủ yếu là tuyến đường ống dẫn dầu từ miền Bắc vào.

Ngày 19/5/1959, đoàn vận tải quân sự 559 được thiết lập để tiến hành các mục tiêu của Bộ Chính trị thông qua Võ Bẩm, và như vậy đã tạo ra một bộ khung của cái mà sau này được lịch sử biết đến với cái tên: Đường mòn Hồ Chí Minh.

Cũng tháng ấy, Bộ Công an đã cử 5 đảng viên cao cấp của mình xâm nhập vào Nam Việt Nam và tăng cường cơ cấu của các đơn vị an ninh đã có ở đó. Họ mang vào Nam những chỉ thị mới chủ yếu của Bộ về vai trò của các đơn vị tình báo và an ninh cộng sản. Ngày 14/5/1959, người ta đã truyền mã Mooc qua đài Hà Nội cho cơ sở miền Nam một cách trung thành quyết định mới của Đảng: phát động chiến tranh ở miền Nam. Vào cuối 1959, theo báo cáo thì đoàn 559 đã đưa 542 cán bộ vào Nam Việt Nam, trong đó 515 người có nhiệm vụ phát triển cơ sở chiến lược ở các khu vực dọc theo biên giới Việt-Lào.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:52
Các vũ khí do phương Tây sản xuất cũng được chuyển theo đường dây cung cấp mới đến các đơn vị du kích ở miền Trung Việt Nam. Sư đoàn 338, một trong hai sư đoàn đã ra Bắc năm l954-l955 được đặt trong tình trạng báo động và những người miền Nam tập kết được thông báo quay trở về các đơn vị cũ của mình đóng ở Xuân Mai. Mùa hè năm đó, Quân đội Nhân dân VN đã thiết lập một trạm vô tuyến bí mật gần đèo chiến lược Hải Vân trên quốc lộ số 1 ở miền Trung Việt Nam. Nhiệm vụ của trạm vô tuyến là phối hợp vận chuyển những chuyến hàng vũ khí đầu tiên chở bằng đường biển từ một kho dự trữ gần Bến Thủy và ở cửa sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. Do biển động và thời tiết xấu đã cản trở hai chuyến hàng đầu tiên không đến mục tiêu theo kế hoạch.
Suốt năm 1959, các mệnh lệnh từ Bộ Chính trị ở Hà Nội về việc củng cố lại cuộc đấu tranh vũ trang đã tạo được phong trào nổi dậy lẻ tẻ, rải rác ở khắp miền Nam. Cần phải đàn áp-Diệm trả lời ngay bằng một sắc lệnh của Nhà nước nhằm lập lại sự bất ổn định mới tái diễn vào mùa thu năm đó.

Mặc dù cộng đồng người Mỹ ở Sài Gòn chưa thấy rõ nguyên nhân của việc báo động, nhưng ở Washington và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương ở Hawaii đã có những quyết định dứt khoát để hoàn tất. Ý định của Washington là tăng cường xung đột ở Việt Nam, Lào đã buộc Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) ra chỉ thị 5809 kêu gọi tăng cường giúp đỡ chính phủ Diệm và ngăn cản Bắc Việt giành chiến thắng. Ở Honolulu kế hoạch đối phó với khu vực châu Á là kế hoạch chiến dịch 32-59 do bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đưa ra ngày 16/2/1959 bao gồm cả chính sách của chỉ thị 5809 NSC.

Năm 1960, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương đã đáp lại sự tăng cường những hoạt động quân sự của Bắc Việt Nam vào Lào bằng các kế hoạch triển khai các lực lượng viễn chinh của Mỹ vào khu vực đó. Thông qua các động thái của chiến thuật này, Hà Nội đã thu nhận được một tin tức quan trọng: Mỹ quyết tâm phản ứng lại bằng sự hiện diện tích cực hơn để bảo vệ những lợi ích của mình ở Đông Nam Á.

Năm 1960, tài liệu nghiên cứu Quốc gia do Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cung cấp và được đại diện CIA tại Sài Gòn là William Colby thông qua cho thấy rằng đường lối Đảng Cần lao của Diệm vẫn có giá trị trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Một ẩn ý trong quan điểm của Colby là phản đối lại sự chỉ trích gay gắt về một số việc làm quá đáng của Đảng Cần lao. Một Đảng mà những thành viên của nó có quan hệ mật thiết và ủng hộ các hoạt động của CIA chống lại Bắc Việt Nam. Mối liên hệ này của chính người em ông Diệm đối với CIA đã buộc Mỹ phải gắn với lực lượng cảnh sát quốc gia. Những hành động quá nặng tay, quá cứng rắn của ông Nhu nhiều khi được coi như là nguyên nhân của những rắc rối chính trị hơn là một giải pháp hữu hiệu.

Vì Colby muốn giữ mối quan hệ tình báo của mình với giới cầm quyền tại Việt Nam, nên Gilbert Layton đã đến Sài Gòn để tham gia vào các nỗ lực của CIA nhằm chuẩn bị cho việc tăng cường các hoạt động chống cộng sản trong toàn khu vực. Trong vài tháng đầu, Layton không có nhiệm vụ cụ thể gì. Sau đó, Colby đã gọi ông ta đến để giao nhiệm vụ mới. Layton đã kể lại việc được giao nhiệm vụ của mình như sau: “…Một buổi, Colby gọi tôi đến và nói một cách rất trịnh trọng: Này, anh Gilbert, ngoài kia đang xảy ra chuyện gì đó? Anh hãy tìm hiểu kỹ xem chuyện gì xảy ra, và chúng ta cần phải làm gì?”

Suốt năm sau, chúng tôi đã tập hợp được một lực lượng khoảng 36.000 người địa phương, gồm phần lớn là người dân tộc thiểu số. Có khoảng 36 nhóm lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ đến huấn luyện. Hiển nhiên là chúng tôi đã đào tạo một số nhóm điệp viên cho Russ Miller, nhưng lúc đó thì tôi không hay biết việc này, tức là trước lúc trung tâm huấn luyện Long Thành ra đời. Điều này do Cộng tác viên Việt Nam của tôi lúc đó là đại tá Lê Quang Tung phụ trách, nhưng tôi chỉ gần gũi với đại uý Trần Văn Minh mà thôi.

Các cố vấn quân sự Mỹ đến Sài Gòn chỉ được biết ông ta dưới cái tên là đại tá Gillbert Layton thuộc Ban nghiên cứu phối hợp (CSD). Layton tặc lưỡi và tiếp tục: “ Khi quân đội Mỹ bắt đầu đến để đào tạo những người mà chúng tôi đã tuyển mộ thì quân đội của chúng tôi cần được cử đi đâu đó theo kiểu hành quân quân sự. Vì vậy, chúng tôi đã xây dựng một tổ chức bình phong. Điều này nghe có vẻ tương đối ổn, và phái quân sự rất thích thú. Bộ phận đó không trực thuộc đâu cả, nó chỉ cần có một cái tên chính thức thế thôi. Các hoạt động do tôi chỉ huy được tiến hành bằng các nhóm điều tra bí mật và các hoạt động gián điệp mà Russ Miller triển khai ra Bắc Việt được gọi là nhóm điều tra trên không. Tucker Gougelmann ở Đà Nẵng cũng giống như Ed Regan và Carl Jenkins ở khu vực phía trên. Tất cả đó mới chỉ là một sự đầu tư rất khiêm tốn.

Sự hiện diện và những hoạt động của Layton ở Sài Gòn đã phục vụ có hiệu quả cho việc che đậy các cơ quan đầu não bí mật của CIA, cho những hoạt động gián điệp được triển khai ra miền Bắc của Russ Miller. Đối với những người đến thăm văn phòng của Lay ton thì Miller và bộ máy của ông ta chỉ là "những nhân viên bàn giấy".

Ed Regan, một trong những sĩ quan của văn phòng CIA làm việc cho Russell Miller đã tham gia tích cực vào việc đưa các nhóm từ Đà Nẵng ra Bắc ngay trong thời kỳ xây dựng đầu tiên theo cách nhìn của ông ta; công bằng mà nói thì không ai trong chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào hoạt động này. Tôi biết Gordon Grey (cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Eisenhower) đã rời Washington để thanh tra và đánh giá hoạt động, trong chuyến đi của mình ông ta kết luận rằng: hoạt động này sẽ không thành công.

Trong giai đoạn đầu tiên mối quan hệ giữa chúng tôi với người của đại tá Tung chủ yếu là phối hợp với các cộng sự Việt Nam cất giấu vật tư chuẩn bị cho khả năng cộng sản sẽ đánh chiếm miền Nam.

Tiếp đó cần phải tìm hiểu tình hình miền Bắc thế nào và chúng tôi chuyển sang các hoạt động gián điệp đơn. Mục tiêu của chúng tôi là đưa một số gián điệp con thoi để biết rõ tình hình ngoài đó. Theo tôi nhớ thì đã có khoảng một tá điệp viên kiểu này (trước khi có các nhóm điệp viên) hoạt động.

Tôi không thể kể hết tất cả những việc mà cộng sự của tôi đã làm, bởi vì mỗi người trong họ đều làm một cái gì đó riêng biệt mà chúng ta không thể nào biết được. Chẳng hạn, em của Tổng thống Diệm ở Huế hình như đã cử một số điệp viên của mình vượt qua Khu phi Quân sự ra Bắc, vào tỉnh Quảng Bình và chúng tôi không có quan hệ với họ. Bác sĩ Tuyến và Lê Quang Tung cũng có những hoạt động riêng lẻ của mình, độc lập với Ngô Đình Cẩn.

Quan hệ của chúng tôi với những người Nam Việt Nam chỉ là để giúp họ thu thập các thông tin cần thiết cho CIA hiểu được rõ hơn những điều gì đang xảy ra ở miền Bắc . Chúng tôi đã phải trả tiền cho các hoạt động này nhưng lại không nắm được quyền kiểm soát vì có những nhóm cạnh tranh tất yếu trong và ngoài chính quyền Diệm.

Trong khi Russ Miller tổ chức cuộc họp đầu tiên giữa chúng tôi với Ngô Đình Cẩn vào năm 1960 thì một trong những sĩ quan khác đã đặt quan hệ với Cẩn và một trong những điệp viên của Cẩn đã được cử ra Bắc vào mùa hè 1961. Có hai sĩ quan người nhỏ bé thuộc lực lượng hải quân Mỹ ở Đà Nẵng làm việc cho chúng tôi. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là lo việc dùng thuyền đổ bộ quân của SEAL (nhóm biệt kích Hải-Lục-Không quân) đối với các hoạt động đường thuỷ của chúng tôi ra Bắc.

Trong khi Bắc Việt triển khai những hoạt động của mình vào phía Nam thì CIA ở Sài Gòn triển khai các hoạt động ra miền Bắc. Cơ quan phản gián của Diệm đã bắt được một mạng lưới gián điệp lớn của Bắc Việt cài lại ở miền Nam, trong đó có một điệp viên trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Anh ta là sỹ quan thông tin quân đội VNCH phụ trách Trung tâm thông tin của Bộ tổng Tham mưu liên quân (JGS).

Các hệ thống mật mã của Nam Việt Nam mà anh ta dùng là do tiếp nhận từ những người Pháp, chắc Hà Nội cũng biết rất rõ điều đó. Nhưng việc bắt anh ta đã cho thấy, những mục tiêu xâm nhập của Bắc Việt là ở mức độ cao.

Một trong những điệp viên của Hà nội là Phạm Chuyên từ Đông Bắc của Bắc Việt. Người mà chẳng bao lâu sau được Sài Gòn và Washington biết đến với cái tên ARES.

Điệp viên ARES? Tôi biết anh ta quá đi chứ. Tôi đã đọc hồ sơ của anh ta. Anh ta có nhiều tên, nhưng tên thực là Phạm Chuyên. Chuyên vào Nam năm 1959 và được chúng tôi tuyển mộ để đánh anh ta quay trở lại Bắc Việt vào tháng 2/1961. Anh ta vẫn giữ liên lạc với chúng tôi ít ra là cho đến 1969 và tôi không biết rõ anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt động cho Bắc Việt. Sau khi cộng sản tiếp quản năm 1975 thì những người Bắc Việt có hỏi tôi về anh ta. Bạn có biết là chúng tôi có thực sự tin anh ta không? Tôi không nghĩ rằng họ hoàn toàn tin tưởng anh ta.

Một sĩ quan khác, người chưa từng gặp Chuyên cũng có quan điểm tương tự:
- Chuyên ấy à? Ồ!... Tôi được cử đến Huế làm phiên dịch, trong khi phỏng vấn anh ta. Tôi nhớ anh ta nhận mình là cháu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và bản thân anh ta cũng giữ chức vị cao trong Đảng, nhưng sau đó vì bất mãn. Anh ta vào Nam năm 1959, được tuyển mộ vào năm 1960. Kết quả phỏng vấn không đưa đến kết luận gì, mặc dù một số người trong tổ chức của bác sĩ Tuyến vẫn nghĩ rằng: anh ta là người của Hà Nội được cài vào. Nếu thực sự anh ta làm việc cho họ thì điều đó cũng chẳng làm cho tôi ngạc nhiên, bởi vì đấy không phải là trường hợp đầu tiên xảy ra. Tôi sẽ giải thích tại sao.

Trước đó, chúng tôi bắt được một nhân viên tình báo cao cấp của Hà Nội. Chúng tôi bắt giữ anh ta và cố gắng lôi kéo anh ta. Cuối cùng, anh ta đồng ý làm việc cho chúng tôi và được đánh trả lại. Nhưng sau năm 1975, anh ta xuất hiện với tư cách là một cán bộ phụ trách hải sản của Việt Nam. Điều đó nói lên rằng: anh ta được tin cẩn và chắc chắn là trá hàng để điều tra xem chúng tôi làm ăn ra sao, có một tình huống khác xảy ra trước đó, ngay từ đầu cũng chứng tỏ Hà Nội đã biết chúng tôi là ai và đang làm gì. Điều đó xảy ra đầu năm 1959, có một chương trình phát thanh của Hà Nội mà Phòng thông tin phát thanh nước ngoài của CIA hiệu thính từ Sài Gòn. Chương trình này thông báo một tin khẳng định rằng: Một thuyền xâm nhập đã bị bắt ở tỉnh Hà Tinh cùng thuyền viên và dụng cụ trên thuyền.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:52
Đài Hà Nội nói rằng: chiếc thuyền đó thuộc tổ chức của chúng tôi dưới quyền lãnh đạo của bác sĩ Tuyến và đọc một danh sách những người trong tổ chức lãnh đạo các hoạt động này rất chính xác: Lê Quang Tung, Trần Khắc Kính, Ngô Thế Linh và những người khác. Một ai đó đã cung cấp thông tin cho họ rất nhanh và chuyện đó thì mọi người rất khó mà quên được.
Chương trình phát thanh này nhằm cảnh cáo chúng tôi, Hà Nội nói với chúng tôi rằng họ biết chúng tôi là ai và chúng tôi đang làm gì. Thực ra chúng tôi không bị mất cái thuyền nào cả và điều đó cũng giúp chúng tôi hiểu rõ mục đích của chương trình phát thanh đó. Chúng tôi chỉ việc chuyển tên của tổ chức này thành "Sở Khai thác địa hình”.

Lê Văn Bưởi có cách miêu tả kỹ hơn về một điệp viên do CIA gửi ra Bắc Việt vào tháng 2-1961. Mùa xuân năm 1960, Ngô Đình Cẩn đến Vũng Tàu để dự một cuộc hội nghi cấp cao (bao gồm các chỉ huy tình báo) của chúng tôi. Vừa đến ông ta đã thông báo rằng ông vừa gặp Phó Tổng thống Mỹ (Lyndon B Johnson) và được biết rằng Mỹ quyết tâm phá hoại và sẽ tấn công Bắc Việt. Đây là sự trao quyền chính thức nhằm tiến hành các hoạt động hỗn hợp liên quan tới các bộ phận của chúng tôi và của CIA. Sau buổi họp đó Cẩn quyết định tham gia tích cực vào nỗ lực này bởi ảnh hưởng của Mỹ và sự giúp đỡ đối với Tổng thống của chúng tôi bắt nguồn từ mối quan hệ với CIA của Trần Kim Tuyến và Ngô Đình Nhu.

Cẩn có cảm giác là mình bị bỏ rơi vì Tuyến làm cái gì cũng hoàn toàn độc lập với Cẩn và điều đó có nghĩa rằng sự ủng hộ của CIA chỉ dành cho một người đó là Ngô Đình Nhu. Tôi gặp đại tá Lê Quang Tung và trình bày với ông ta về suy nghĩ của Ngô Đình Cẩn. Chúng tôi muốn bắt đầu những hoạt động tình báo tấn công độc lập chống lại Bắc Việt và nhờ sự giúp đỡ của đại tá Tung. Tung không đáp ứng một cách tích cực kế hoạch của chúng tôi. Ông ta nói là đã có các nhóm công tác ở miền Bắc và họ làm việc rất tốt. Họ có bị mất một vài người nhưng tin rằng họ sẽ thành công. Hiển nhiên đại tá Tung sẽ không giúp đỡ như chúng tôi hy vọng. Chúng tôi muốn làm một cái gì đó ở Lào, nhưng đề nghị đó cũng bị đại tá Tung từ chối nốt.

Có rất nhiều dạng hoạt động chống lại Bắc Việt lúc đó. Có những nhóm nhân viên của đại tá Tung từ quân đội. Những người đã được cử đến Liên đội quan sát 1 vào tháng 1 năm 1961 và họ đã ra Bắc. Chúng tôi biết điều này do có những thông tin truyền nhận và phối hợp giữa Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Nhu.

Có cả những mạng lưới điệp viên nằm vùng. Các mạng lưới này được Pháp xây dựng trước khi họ rút vào năm 1955 và họ chuyển các hồ sơ điệp viên đó cho chúng tôi. Pháp cũng chuyển một số cho một linh mục Việt Nam, linh mục đó được cử sang Vatican nhưng ông được giao nhiệm vụ phải đi khắp châu Á. Ông ta thường đến giảng đạo ở nhà thờ Huế. Chúng tôi bắt đầu hiểu ra rằng Ngô Đình Nhu đã tiếp cận được với các tài liệu này theo con đường của Pháp, và năm 1961 ông ta đã cung cấp các điệp viên nằm vùng này cho CIA để phục vụ hoạt động gián điệp ra Bắc Việt Nam cùng với tổ chức của bác sĩ Tuyến.

Chúng tôi đã liên lạc với các điệp viên này qua cơ sở ở Đông Hà ngay sát khu phi quân sự. Cơ sở này là một bộ phận của Tuyến chứ không phải của riêng Cẩn, nhưng Cẩn vẫn có thể chuyển những thông tin của mình qua nó. Theo tôi biết thì CIA cũng đã giúp đỡ cơ sở này vào thời điểm ấy.

Để kéo chúng tôi vào những hoạt động này, Ngô Đình Cẩn đã trực tiếp đề nghị tôi giới thiệu cố vấn CIA cho Cẩn. Tôi là người đầu tiên mà Ngô Đình Cẩn cử ra Bắc để chứng tỏ rằng chúng tôi có thể làm không kém gì Ngô Đình Nhu. Để nghị được chấp nhận, bởi vậy tôi đã tham dự một cuộc họp của Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông cùng cố vấn của CIA và một vài người Việt Nam khác.

Sỹ quan CIA cho tôi biết rằng chiến tranh sắp xảy ra và nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ họ chuẩn bị cho chiến tranh. Tôi phải phát hiện các mục tiêu để máy bay ném bom, và viên sĩ quan CIA nói với tôi rằng các cuộc ném bom bằng không quân sẽ có thể xảy ra trong khoảng 2 năm tới. Điều này có nghĩa là chiến tranh có thể diễn ra công khai vào khoảng năm 1963. Sau đó Cẩn đề nghị cấp cho tôi số tiền mà tôi cần. Tôi biết đó chỉ là tiền giả, CIA đã in rất nhiều loại tiền đó. Tôi không màng đến một đồng nào bởi tôi sợ rằng sẽ bị nguy hiểm nếu họ phát hiện ra tôi có rất nhiều tiền giả và buộc cho tôi có quan hệ với CIA. Tôi được quyền tiến hành các hoạt động phá hoại mà không cần đợi ý kiến của Huế. Tôi đã được xem tất cả ảnh của từng cá nhân mà tôi phải bắt liên lạc từ người đầu tiên mà tôi sẽ phải gặp ở phía Bắc khu phi quân sự cho đến những người ở nơi xa xôi phải đến là Quảng Yên. Vì thế tôi biết hình dáng của họ như thế nào. Tôi còn được cấp một hộ chiếu nội bộ để sử dụng nếu gặp trở ngại trước khi bắt liên lạc với người đầu tiên.

Tất cả chúng tôi đều nhận thấy rằng tôi rất có thể bị giữ lại ngay trước khi đi sâu vào đất liền. Bất kể bị giữ lại ở đâu tôi chỉ khai rằng tôi đi từ miền Nam. Phan Quang Đông là chỉ huy trưởng cơ quan tình báo công giáo của Cẩn và là người lãnh đạo trực tiếp của tôi cho tôi biết rằng tổ chức của Trần Kim Tuyến đã gửi 2 điệp viên tới Quảng Yên. Người thứ nhất là người miền Nam. Tôi không biết anh ta là ai và tôi cũng chẳng bao giờ biết gì hơn về anh ta. Người thứ hai là Phạm Chuyên. Tôi là người tiếp theo và có thể có người nào nữa sau tôi nhưng tôi không biết chắc. Chuyên trước là cán bộ trung cấp của Đảng đã vượt biên vào Nam năm 1959. Anh ta khẳng định rằng do bất mãn nên trốn. Tổ chức của bác sĩ Tuyến đã tuyển anh ta làm điệp viên và cử anh ta trở lại Quảng Yên đầu năm 1961.

Sở dĩ Ngô Đình Cẩn muốn đưa tôi ra Bắc bởi vì ông ta có cảm giác rằng việc cài thành công Chuyên ra Bắc đã tạo cho tổ chức của Tuyến một uy tín thực sự dưới con mắt của CIA. Nếu Nhu và Tuyến có thể đưa Chuyên đến đó thì tôi cũng có thể làm được. Bên cạnh đó, Chuyên trước kia là một đảng viên Cộng sản và có những lo lắng cho rằng Bộ Công an đã cử anh ta vào Nam với nhiệm vụ xâm nhập vào tổ chức của Tuyến. Vì vậy Cẩn bảo tôi là phải tránh xa Chuyên, nhưng phải báo cáo mọi điều mà tôi biết về anh ta.

Tất nhiên chúng tôi muốn sự giúp đỡ của Mỹ dẫu có bị hạn chế. Chẳng hạn, Ngô Đình Cẩn ve vãn người Nhật vì có tin người Nhật sắp đầu tư vào Việt Nam và Cẩn có vẻ xuôi theo hướng đó.

Việc tăng cường sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Việt Nam theo những gì mà tôi được nghe Tổng thống Diệm muốn nhận được viện trợ của Mỹ nhưng lại không muốn quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam, và chúng tôi đã tranh luận với nhau quan điểm đó.

Diệm sợ rằng nếu lực lượng bộ binh của Mỹ vào Nam Việt Nam thì quân Trung Quốc có thể nhảy vào phía Bắc. Nếu điều đó xảy ra thì cuối cùng người Mỹ sẽ phải rút khỏi Việt Nam và lực lượng của Hà Nội sẽ chiếm miền Nam và sử dụng nó để thiết lập quan hệ với chính phủ Bắc Kinh. Vì vậy nếu một khi quân đội Mỹ không vào Nam Việt Nam thì Trung Quốc cũng không vào Bắc Việt Nam, và Bắc Việt Nam sẽ không có sự giúp đỡ rộng lớn từ khối cộng sản.

Đầu năm 1961 thiếu tá Lê Văn Bưởi vượt sông Bến Hải ra Bắc Việt Nam. Sau khi được chuyển qua các cơ sở liên lạc anh ta đã đến cảng Đông Bắc - Hòn Gai. Bưởi tiếp tục kể:
- Lúc ấy mạng lưới điệp viên nằm vùng ở đó còn rất nhỏ bé. Họ có quan hệ thường xuyên với miền Nam, được cung cấp điện đài và các vật dụng khác do tàu đánh cá Đài Loan-loại dùng để cung ứng cho các mạng lưới. Tôi biết họ vì tôi đã đến một lần bằng thuyền vào năm 1959 và gặp những người đi lên thuyền của chúng tôi. Sau đó, tôi đến lần nữa vào năm 1961, với một người và gặp những người đánh cá đó là những người cung ứng thường xuyên theo định kỳ của mạng lưới. Thời điểm đó thì việc làm này cũng đơn giản vì việc đánh cá ở vịnh Bắc Bộ chưa bị ai cản trở.

Mạng lưới điệp viên chúng tôi ở Hòn Gai sử dụng máy điện đài để liên lạc với miền Nam mỗi tuần một lần. Và tôi có thể gửi những thông tin bằng vô tuyến về cho Ngô Đình Cẩn. Chúng tôi có thể chuyển điện đài di động ở nhiều địa điểm trong và ngoài thành phố-những nơi được gọi là các hòm thư chết-nơi mà chúng tôi có thể gửi hoặc nhận thông tin mà không bị ai phát hiện. Tôi không nhìn thấy máy điện đài và cũng chẳng biết người ta sử dụng mã gì. Hơn nữa tôi cũng chẳng quan tâm đến điều đó.

Tất cả những gì cần cho tôi là có thể gửi và nhận thông tin. Tôi có thể nhận thông tin thường xuyên từ Ngô Đình Cẩn và luôn biết rằng các thông tin đó chính là của ông ta. Tất cả các tin ấy đều có dấu hiệu xác thực theo quy ước có nghĩa là thông tin đó là của ông Cẩn với các dấu hiệu quen thuộc.

Rồi sau nửa năm thu thập thông tin và tiến hành một số hoạt động phá hoại nhỏ, Bưởi kể rằng tình hình bắt đầu thay đổi: có những cuộc tuần tra ở trong khu vực nhưng chưa có chuyện gì quan trọng xảy ra. Cho đến đầu năm 1962 khi một chiếc thuyền xâm nhập từ miền Nam ra bị bắt gần Hòn Gai cùng với các thuyền viên. Thuyền đó không phải cung cấp cho tôi và tôi cũng chẳng làm gì có hại đến họ. Vì vậy tôi bắt đầu nghi ngờ Chuyên. Một trong những liên lạc viên của tôi đã chỉ Chuyên cho tôi và nói rằng mạng lưới rất lo lắng vì nghi anh ta làm việc cho Bộ Công an. Câu hỏi duy nhất mà họ đặt ra là anh ta đã bị bắt và được họ sử dụng hay anh ta là một gián điệp đôi. Chuyên có vẻ rất nổi tiếng và được một trong những nhân viên công an địa phương một lần đã nói rằng có điều gì đó không ổn bởi sự có mặt của Chuyên ở Hòn Gai. Công an Hòn Gai biết rằng anh ta đã vào Nam một thời gian rồi sau đó đột nhiên quay trở về và sống yên ổn y như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhân viên công an này nói Chuyên chắc là một cán bộ có cỡ và được giao nhiệm vụ làm tất cả những điều mà không bị bắt cho đến khi anh ta quay trở lại Bắc Việt. Trong một thông tin gửi cho Cẩn tôi đã báo cáo sự lo lắng về Chuyên. Cẩn đáp lại rằng: ông ta và cố vấn CIA rất hài lòng với công việc mà tôi đã làm. Sau đó Chuyên rời khỏi Uông Bí về Hà Nội và tôi mất dấu vết của anh ta.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:52
Tại sao một người bị nghi là gián điệp đôi như Chuyên lại có thể dễ dàng rời khỏi miền Bắc như một người tỵ nạn và đi suốt vào Sài Gòn mà không bị một ai nghi ngờ hoặc lên tiếng cảnh báo? Thực ra tôi cũng không thể đưa ra lời lý giải về nó. Có bao nhiêu việc đã xảy ra cứ tưởng chúng liên quan với nhau, nhưng lại được ngăn cách riêng biệt. Trường hợp của Chuyên có thể là đã đi qua Quảng Trị, ai mà khẳng định được nhỉ. Nếu đi theo chương trình tỵ nạn thì sau khi chuyển tới Quảng Trị rồi tới Huế. Giả sử chúng tôi phát hiện ra một người nào đó có thiện chí hợp tác thì Ngô Đình Cẩn sẽ lập tức rút người đó ra khỏi danh sách rồi khéo léo tác động để đưa họ trở lại miền Bắc làm việc cho chúng tôi. Ngược lại, nếu chúng tôi có ấn tượng nghi ngờ ai đó là gián điệp đôi thì người đó sẽ được gửi vào Sài Gòn để xừ lý thông qua trung tâm thẩm vấn Gia Định. Ở trường hợp của Chuyên lại đưa thẳng đến Sài Gòn, điều đó đã nói rằng qua thẩm vấn sơ bộ đã có căn cứ để kết luận anh ta làm việc cho Bắc Việt. Song chỉ việc anh ta được phái trở lại miền Bắc đã đủ sức phản bác lại kết luận trên vì nếu không tin tưởng, không có thiện chí thì sao lại như vậy được. Phải chăng đây là trường hợp ngoại lệ? Có nhiều khả năng là đã phát hiện ra anh ta là ai và quyết định thử xem Hà Nội sẽ làm gì, có lẽ nên giả thiết như vậy chăng? Nếu Chuyên cung cấp thông tin tốt thì chúng tôi sẽ có thông tin tốt còn nếu anh ta cung cấp thông tin tồi thì chúng tôi sẽ khử anh ta.
“Như vậy chuyện gì đã xảy ra trong vụ Chuyên?" Tôi hỏi Bưởi.

"Tôi không biết." Anh ta uể oải trả lời, cơn đau đầu lại hoành hành: "Tôi làm việc cho Cẩn còn Chuyên thì làm việc cho Tuyến. Tôi có những nhiệm vụ khác phải thực hiện".

Ed Regan cũng đưa ra quan điểm của mình về việc thay đổi trong hoạt động:
- Sau khi Kenedy trở thành Tổng thống (qua cuộc bầu cừ tháng 11-1959) thì sức ép tăng dần lên đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường hoạt động gián điệp ở mức thấp sang các nhóm bán vũ trang. Áp lực đòi phải đưa các nhóm điệp viên bán vũ trang ra miền Bắc không phải xuất phát từ trung tâm ở Sài Gòn mà là từ Washington.

Tổng thống Diệm và những người thuộc cơ quan CIA tại Sài Gòn đều nhất trí dự kiến số lượng vũ trang của cộng sản ở miền Nam không quá 3000 vào thời điểm 1959. Vào cuối năm 1960 theo như báo cáo thì lực lượng "Việt cộng" đã lên tới 7000, vì thế Diệm và một số người Mỹ đã rung chuông báo động là số lượng cộng sản còn nhiều hơn. Diệm và những tư lệnh quân sự của mình đã mong nhận được sự giúp đỡ của Mỹ lớn hơn thông qua chương trình viện trợ quân sự (MAP), và sự gia tăng sức mạnh của kẻ thù chính là động lực để Washington có phản ứng. Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lê Duẩn có năng lực thuyết phục khối cộng sản và những người cộng sản ủng hộ mình thì Tổng thống Diệm cũng chẳng kém tài cán trong việc ve vãn Washington, bởi họ cũng mong muốn tăng cường sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam.

Bắc Việt hiểu rất rõ rằng bất kỳ sự tăng cường chiến tranh nào ở miền Nam cũng đều đòi hỏi có sự đảm bảo hậu phương ở miền Bắc vững chắc.

Để ngăn chặn những hoạt động gián điệp của miền Nam, Bộ Công an ở Hà Nội đã ra sắc lệnh số 20 VP-P4 ngày 8/1/1960 đóng cửa biên giới trên tuyến đường biển và đường bộ miền Bắc. Mệnh lệnh này bao gồm cả sự tăng cường các hoạt động giữ vững an ninh chính trị trong các khu vực này. Ngày 17/1 Bộ Chính trị ra chỉ thị số 186-CT-TW nhằm tập trung sự chú ý của toàn dân vào 2 nhóm chủ yếu cần phải loại trừ về mặt chính trị được xác định là có liên quan trực tiếp trong hoạt động "phản cách mạng" do nước ngoài chỉ huy: công giáo và các dân tộc thiểu số. Vào tháng 9 đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động đề cập đặc biệt đến chiến tranh tâm lý, gián điệp, các hoạt động bán quân sự chống lại miền Bắc. Đại hội kêu gọi đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Điều này diễn ra khi Đảng đang chuẩn bị kế hoạch 5 năm lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1961.

Sau hơn 3 thập kỷ khi viết về giai đoạn này Việt Nam coi tháng 2/1960 là thời điểm mà lực lượng Công an Nhân dân Vũ trang (LLCANDVT) tiếp nhận hệ thống mật mã T09 thay cho hệ thống mật mã cũ là DB2. Là một dạng của KTB4-một hệ thống mật mã không sử dụng rộng rãi đối với QĐNDVN trong 7 năm tiếp theo-hệ thống T90 được coi là có độ an toàn gấp đôi hệ thống mật mã cung cấp cho LLCANDVT năm 1959. Giờ đây, Hà Nội công nhận các bộ mã và các quá trình liên lạc đã được cải tiến này là chìa khoá để họ có thể đối phó với các điệp viên của miền Nam xâm nhập ra miền Bắc.

Việc chuyển sang mật mã mới an toàn hơn là kết quả của cuộc họp Bộ Chính trị ngày 17/2/1960. Cuộc họp này đã xem xét các hoạt động gián điệp bán vũ trang được cài cắm chống lại miền Bắc và điều chỉnh kế hoạch để đối phó với chúng. LLCANDVT được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động phản gián do Bộ Công an chỉ đạo. Đây là lực lượng mũi nhọn trong việc bắt các nhóm gián điệp khi chúng xâm nhập và đảm bảo an ninh xung quanh khu vực, phát hiện tín hiệu có nghi vấn hoặc các điện báo viên từ phía Nam đến. LLCANDVT toàn Việt Nam đã xây dựng và thực hiện một chế độ báo cáo hàng ngày và hàng tuần về tất cả các hành vi khả nghi dọc tuyến biên giới phía Bắc.

Ngày 10/3, tư lệnh LLCANDVT đã giao quyền cho một số đồn biên phòng và các địa phương dọc biên giới Lào trực tiếp báo cáo bằng vô tuyến cho Bộ chỉ huy LLCANDVT về tất cả những hoạt động khả nghi càng nhanh càng tốt. Điều này là cần thiết để đảm bảo rằng mọi thông tin về những nhóm điệp viên khả nghi được chuyển ngay lập tức đến bộ phận lãnh đạo cao nhất của LLCANDVT. Những dấu hiệu khả nghi bao gồm cả việc nhìn thấy các máy bay khả nghi, có khả năng hoặc thực tế có biệt kích nhảy dù; từ khi bắt đầu báo cáo thì các chỉ thị giữa Bộ chỉ huy các LLCANDVT và các đồn, các trạm biên phòng được chuyển tiếp và nhận ở Hà Nội chậm nhất trong vòng vài gìờ.

Nhờ sự đánh giá trùng lặp của Bắc Việt rằng: "Các hoạt động mã thám của kẻ thù đang được tăng cường", nên thông tin cần phải chuyển bằng các tín hiệu mật mã trên mạng lưới vô tuyến của LLCANDVT chỉ giới hạn trong các vấn đề có tính chất khẩn cấp. Các thông tin vô tuyến tiếp tục được ngụy trang bằng cách xáo trộn nội dung của chúng và bằng cách sử dụng các phương pháp gây nhiễu khác nhằm cản trở khả năng thu thập của đối phương khi có ý định giải mã các thông tin này.

Lực lượng phản gián trực thuộc Bộ Công an, một lực lượng thường gọi là biệt động được Bắc Việt xem như là "một phương pháp an ninh đặc biệt" sử dụng để tấn công kẻ thù. Như Bắc Việt mô tả khái niệm biệt động, đó là vấn đề phải đấu trí ngay với kẻ thù.

Khi một nhóm điệp viên bị bắt và nhân viên điện đài phải phát tín hiệu theo lệnh của Hà Nội. Vấn đề mấu chốt đối với hoạt động này là giữ an toàn tuyệt đôi đối với các mệnh lệnh, chỉ thị và thông tin có liên quan đến hoạt động khi mà các chi tiết này được truyền bằng tín hiệu mật mã. Chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể làm kẻ thù nghi ngờ và cuộc chiến tranh thầm lặng này sẽ có thể dẫn đến thất bại. Chỉ những cán bộ trực tiếp phụ trách thực hiện chiến dịch, các cán bộ mật mã và các chuyên gia giúp đỡ trực tiếp là những người duy nhất được phép biết nội dung bí mật của các hoạt động này.

Suốt cả năm 1960 CIA ở Sài Gòn tiếp tục nhằm vào các hoạt động gián điệp ở mức tương đối thấp chống lại Bắc Việt. Đối với quan chức CIA ở Sài Gòn và Đà Nẵng, những người trực tiếp cử điệp viên ra Bắc thì thành công được đo bằng kết quả thực tế các điệp viên được cài cắm một cách an toàn và trở về Nam với nhiều thông tin có giá trị. Sau đó, vào cuối 1960 đề nghị của CIA được nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) thông qua, thì các hoạt động của CIA Sài Gòn chuyển sang các nhóm điệp viên bán vũ trang, chứ không chỉ là các điệp viên bình thường.

Đầu năm 1961, tổ chức của bác sĩ Tuyến đã tuyển các nhóm điệp viên vũ trang theo mục đích của Colby bắt đầu gây nên một vài sự rối ren đối với miền Bắc , trong khi miền Bắc gây nên tình hình xáo trộn lớn ở miền Nam. Colby giải thích:
- Chiến lược của chúng tôi chỉ nhằm xây dựng một bộ khung ở đấy. Chỉ cần một bộ khung dưới hình thức nào đó mà chúng tôi có thể dựa vào để xây dựng lực lượng kháng chiến và phá hoại hoặc làm bất cứ cái gì cần làm như chiến tranh tâm lý hay các việc tương tự. Bước đầu chỉ cần một số người để có thể liên lạc được, chứ không cần quá tinh tế.

Theo như tôi nhớ và chắc là như vậy thì vị trí của các nhóm chủ yếu được chọn trên cơ sở sự quen thuộc địa hình, địa vật trong nhóm. Điều này có nghĩa là một trong những người trong nhóm của bạn đến từ một vùng quê nào đó thì yêu cầu anh ta quay trở lại và bắt liên lạc ở vùng ấy. Tôi cho rằng nếu bạn có thể sống ở vùng núi thì sẽ an toàn hơn là sống ở vùng bị kiểm soát chặt chẽ ở đồng bằng. Vì vậy, có xu thế đưa bạn ra khỏi các trung tâm thành phố. Nhưng theo tôi tưởng, vẫn là ở chỗ phải xây dựng cơ sở mà dựa vào đó chúng ta có thể xâm nhập vào vùng đồng bằng.

Về vấn đề các nhóm điệp viên ra Bắc, có thể nhanh chóng cắm chốt dọc theo đường sắt của Hà Nội, Colby nói: "Điều đó có thể là một mục tiêu bổ sung. Cùng với mục tiêu cuối cùng là phá hoại chúng."

Với tư cách là trùm tình báo CIA ở Sài Gòn, Colby cũng phải tranh cãi với các viên chức của Diệm-là những người rất cần thiết cho hoạt động bí mật nhưng lại đang ngày càng trở thành mục tiêu của sự hằn thù trong và ngoài nước, bởi Diệm không muốn chia sẻ quyền lực.

Colby đã tỏ ra quá mệt mỏi trong việc ủng hộ ông Nhu và bác sĩ Tuyến nên ông đã cùng với các quan chức Mỹ ở Sài Gòn hối thúc việc gạt bỏ họ. Thế nhưng Diệm đã phớt lờ mọi yêu cầu này.

Điệp viên ARES ra Bắc bằng thuyền vào tháng 2/1961 và đổ bộ an toàn vào vùng Đông Bắc Quảng Ninh. Ngay lập tức, anh ta thông báo việc đổ bộ an toàn của mình cho Sài Gòn.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:53
Khi quan điểm mới của Colby về hoạt động của các nhóm bán vũ trang đang được thực hiện thì một sự kiện khác lại xảy ra ở nửa bán cầu bên kia có ảnh hưởng lâu dài đến chương trình bí mật của CIA, nếu không nói là ảnh hưởng đến bản thân chiến tranh Việt Nam. Đó là sự kiện Vịnh Con Lợn 17-19/4/1961 vụ đổ bộ vội vàng vào Cu Ba bị thất bại, gây ra tác động đối với Việt Nam xảy ra ngày 20-4: khi Tổng thống Kennedy thành lập nhóm "nghiên cứu đặc biệt", do tướng Maxwell Taylor phụ trách, có nhiệm vụ xem xét về thảm họa vịnh Con Lợn và khuyến nghị để những hoạt động tương tự của Mỹ trong tương lai ở môi trường không có chiến tranh công khai trở nên có hiệu quả.
Tổng thống Kennedy cho rằng "Chủ nghĩa cộng sản" đang tiến hành chiến dịch gặm nhấm. Ông ta cũng bày tỏ sự quan tâm nhiều đến các hoạt động bán quân sự đối đầu với cuộc chạy đua vũ trang đang tiếp tục leo thang. Quan điểm của ông ta cho thấy: "Cách mạng l959” của Cu Ba và thất bại ở vịnh Con Lợn hai năm sau đó chỉ là dấu hiệu của những vấn đề sắp xảy ra. Ông cho rằng: cả Nam Việt Nam và Lào tiếp theo cũng trở thành cộng sản, nếu không có một biện pháp gì đó thật hữu hiệu để ngăn chặn và phải tiến hành thật nhanh. Giải pháp của Tổng thống là bắt đầu một quá trình chuyển các hoạt động dạng bán quân sự kiểu này từ CIA sang Bộ Quốc phòng ở Việt Nam, đồng thời đưa vào kế hoạch chiến tranh đã được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JCS) thông qua.

Ngày 13/6, nhóm của tướng Taylor đã đệ trình báo cáo kết quả nghiên cứu của mình cho Tổng thống Kennedy, báo cáo chỉ ra rằng: "Mỹ đang ở trong một cuộc chiến tranh một mất một còn mà chúng ta có thể đang hoặc sẽ thất bại, trừ khi chúng ta thay đổi cách thức và điều phối được các nguồn lực, với một cường độ giống như thời kỳ chiến tranh trước kia". Báo cáo đề nghị là phải phối hợp tập trung lực lượng bán quân sự bí mật ở Việt Nam, và những phần chủ yếu của đề nghị này đã được Kennedy thông qua vào ngày 28/6.

Trong khi Kennedy yêu cầu đánh giá về sự kiện Vịnh Con Lợn, thì bốn trung sĩ thuộc sư đoàn 22 quân đội Việt Nam Cộng hoà cũng đang chuẩn bị tiến hành thực hiện chương trình mở rộng hoạt động ra miền Bắc của CIA. Họ được các sĩ quan tình báo của sư đoàn 22 phát hiện là có khả năng tiến hành các hoạt động cho Sở khai thác địa hình xâm nhập vào Bắc Việt. Tất cả bọn họ đều người gốc Sơn La và đã phục vụ quân đội Việt Nam trong liên hiệp Pháp.

Họ được đưa về Sài Gòn sau khi đồng ý tự nguyện tham gia chuyến công tác bí mật ra Bắc. Khi văn phòng 45 thông báo cho biết là sẽ nhảy dù xuống Sơn La thì họ đã không khước từ ý định tham gia chuyến công tác này. Tháng 5, bốn người đó trở thành toán CASTER dưới sự chỉ huy của Hà Văn Chấp. Họ được thả xuống Sơn La và ở đó lực lượng của Bắc Việt đã sẵn sàng chờ đón. Chẳng bao lâu sau khi họ bị bắt, nhân viên điện đài đã buộc phải làm việc cho Cục phản gián-Bộ Công an. Anh ta đã thông báo cho Sài Gòn là nhóm đã đến nơi an toàn. Toán CASTER vẫn tiếp tục liên lạc qua điện đài như là một toán độc lập cho đến tháng 7/1963 khi CIA cho rằng họ đã mất liên lạc với CASTER. Lần xuất hiện cuối cùng của CASTER là ở Lào. Ngày 2/6, 3 người thuộc toán ECHO nhảy dù xuống huyện Lam Trạch thuộc vùng ven biển Quảng Bình. Họ bị bắt cùng với các thiết bị điện đài mà Cục phản gián đã sử dụng để mở rộng chiến dịch nghi binh lúc đó đang phát triển. Nhân viên điện đài đã làm theo mệnh lệnh của Bắc Việt nhưng bí mật báo cho Sài Gòn biết là mình đang bị khống chế. Sau đó, Trung tâm CIA ở Sài Gòn liền dùng cái gọi là "trò chơi vô tuyến" mèo vờn chuột thầm lặng với kẻ thù thông qua sóng vô tuyến. Trò chơi này được tiếp tục cho đến 8/1962 khi CIA chủ động chấm dứt.




Cũng tháng 6 năm đó, 4 trung sĩ khác đều là người Tây Bắc Việt Nam đã tham gia lực lượng bán quân sự đang phát triển. Được lập thành toán DIDO, họ nhảy dù xuống Lai Châu, gần thị xã. Một thành viên trong toán đã kể lại số phận của họ cho một biệt kích khác trong tù như sau: "Sau khi đổ bộ, chúng tôi chạy ra khỏi rừng. Tôi chạy về nhà lấy thức ăn liền bị bắt trước khi quay trở lại với đồng đội".

Lực lượng an ninh Hà Nội được đưa đến chỗ của DIDO và nhân viên điện đài đã bị thuyết phục phát tín hiệu dưới sự khống chế của Hà Nội. Anh ta cũng phải theo những thủ tục qui định nhưng đã ngầm báo cho Sài Gòn biết mình đang phát tin dưới sự khống chế của Hà Nội, và còn có hai điệp viên khác đã nhảy dù để tăng cường cho toán này.

Toán DIDO cũng giống như ECHO trở thành đối tượng của "trò chơi điện đài" giữa CIA và Hà Nội cho đến khi CIA từ bỏ liên lạc với DIDO. Mặc dù Sài Gòn nhận biết được họ đã bị bắt nhưng theo báo cáo thì DIDO chịu trách nhiệm đối với sự mất tích của toán REMUS sau đó.

Cũng vào tháng 6/1961, sĩ quan CIA Samuel Halpern đến Sài Gòn. Là sĩ quan văn phòng ở Tổng hành dinh của CIA ở Washington năm l945, ông ta đã giám sát các hoạt động của điệp viên Patti thuộc OSS ở Đông Dương. Halpern đến Sài Gòn với một nhiệm vụ rất đặc biệt. Ông ta đã kể lại một cách ngắn gọn nhận thức của mình về hoạt động của Colby:
-Tháng 6/1961, Cục trưởng Cục Viễn Đông Desmond Fitgerald đã cử tôi đến Sài Gòn thực hiện một nhiệm vụ bất thường. Tôi ở đó khoảng 4 tháng do liên quan đến một ý tưởng khác của tướng Edward Lansdale. Ý tưởng đó là phải tìm ra vị trí của tất cả các máy phát vô tuyến của Việt cộng ở Nam Việt Nam rồi thả các nhóm lính dù xuống đó để bắt nhân viên điện đài cùng các trang thiết bị liên quan. Lúc đó, tôi là đại diện của CIA Sài Gòn trong một nhóm hỗn hợp Mỹ-Việt Nam Cộng hoà có nhiệm vụ thực thi ý tưởng đó. Nó tưởng chừng như đơn giản nhưng chưa bao giờ thành công. Lansdale là phó cho thiếu tướng Graves Erskine-chỉ huy văn phòng các hoạt động đặc biệt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Lansdale làm phó văn phòng từ 1957-1963 và văn phòng của Erskine là điểm chốt trong Bộ Quốc phòng để trợ giúp về mặt quân sự nếu CIA cần hoặc yêu cầu. Lansdale đã phục vụ đắc lực cho Tổng thống Magsaysay ở Philipine vào giữa những năm 1950, và đã trở thành một nhân viên "kỳ diệu”. Sự “kỳ diệu” này không thể có ở Nam Việt Nam và Cu Ba. Trong khi phỏng vấn, tôi đã hỏi Halpern: "Nhìn chung, các hoạt động này được thực hiện như thế nào theo quan điểm phát triển đã được ban NSC5412 thông qua sự cho phép của Bộ tổng hành dinh và các yêu cầu của CIA ở Sài Gòn để phối hợp tác chiến theo quan điểm và sự điều chỉnh của Bộ tổng hành dinh?" Ông ta tiếp tục: "Tôi nghĩ rằng sự phân cấp ở đây cũng giống như tất cả các hoạt động dạng thế này, cụ thể là được nhóm đặc biệt của Hội đồng an ninh thông qua. Trong nhiều năm, nhóm đặc biệt đã được biết đến dưới nhiều cái tên khác nhau: 5412, 303 nhóm đặc biệt"...

Sự phân cấp cơ bản đối với các hoạt động này có thể bắt đầu với sự thông qua về mặt nguyên tắc từ nhóm đặc biệt, hoặc cũng nhóm đó với một tên khác vào một thời điểm khác. Nó có thể xuất phát từ ý tưởng của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng hay Bộ Tổng hành dinh của CIA, hoặc theo đề nghị của chỉ huy một bộ phận CIA ở nước ngoài. Đề nghị được đưa đến cho nhóm đặc biệt phải viết theo mẫu chuẩn của tài liệu dạng quân sự. Bất cứ sự thay đổi lớn nào về quan điểm, cần phải có sự chấp nhận của nhóm đặc biệt. Sự chấp nhận quan điểm thường được xử lý bởi một sĩ quan văn phòng thích hợp phụ trách khu vực hoạt động đó.

Tất cả mọi hoạt động đều có tính độc lập. Chẳng hạn rất ít sĩ quan trong cơ quan tình báo biết được rõ ràng những thông tin về U2, và còn ít hơn nữa có thể nhìn thấy những sản phẩm cụ thể. Tôi không nhớ ràng Việt Nam được coi là mục tiêu ưu tiên cao vào cuối năm 1960 hay đầu 1961. Không phải theo nghĩa về sự ưu tiên quốc gia của chúng ta được đặt ở đâu. Như mối quan tâm hàng đầu là Liên Xô, sau đó là Trung Quốc và những vấn đề khác. Việt Nam không phải là một trong những ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Tôi đã đại diện cho trạm CIA Sài Gòn ở Hội nghị chỉ huy các trạm trưởng vào đầu 1961 ở Tổng hành dinh Thái Bình Dương và tôi không nhớ rằng: chúng tôi đã thảo luận về các hoạt động bán vũ trang có áp lực gì đối với trạm CIA ở Sài Gòn không? Tôi hỏi Halpern. Ông ta cười và trả lời: “Có thể là có áp lực ở thời điểm đó bởi vì họ chắc chắn là có mặt ở các khu vực khác và ở các thời điểm khác. Chẳng hạn như vụ Mongoóe ở CuBa vào cuối năm 61-62 rồi sau đó nữa. Ví như sau vụ Vịnh Con Lợn, Giám đốc CIA sẽ tiếp tục phát triển các hoạt động của mình. Đấy là một giai đoạn khó khăn nhưng chúng tôi cũng vẫn phát triển. Tôi nghĩ là không có ảnh hưởng gì đến hoạt động của bản thân Sài Gòn. Bởi vì CuBa là CuBa mà Việt Nam là Việt Nam".

Khi tôi hỏi Halpern là ông đánh giá thế nào về trạm CIA Sài Gòn thì ông ta nói: “Chỉ huy trưởng trạm CIA Sài Gòn rất tích cực trong việc tiến hành các hoạt động ra miền Bắc . Tôi nhận ra vấn đề này vào cuối tháng 6/1961, khi đến gặp ông ta ở Văn phòng và thấy ông ta cùng với cấp phó của mình ở Trung tâm tín hiệu nằm trên tầng cao nhất của Đại sứ quán cũ. Trạm đã có một nhóm sẵn sàng lên đường nhưng vẫn chưa nhận được lệnh cho phép từ Bộ Tổng hành dinh.

Trưởng trạm CIA Sài Gòn đã gửi một bức điện báo khẩn trước đó, và tôi ngạc nhiên là ông ta vẫn chưa nhận được trả lời, nhất là khi máy bay đang chờ cất cánh để đưa các điệp viên đi. Tôi đề nghị là cần phải gửi một bức điện báo thượng khẩn và họ cũng đã gửi bức điện báo đó. Chỉ trong vòng vài phút sau họ đã nhận được bức điện "thượng khẩn" trả lời.

Ở Sài Gòn, tôi biết rất ít về các hoạt động ở miền Bắc, ngoại trừ một điều: hình như mục đích của chúng chỉ là để thu thập thông tin. Ý tưởng ở đây là đưa một số người ra Bắc thu thập thông tin và báo cáo về Sài Gòn. Nhiệm vụ của họ là đi thăm dò xem có điều gì xảy ra ở đó? Ai là cái gì? Rồi báo cáo. Bây giờ thì tôi mới biết rằng: các toán còn được giao những nhiệm vụ khác nữa.

Việc ngủ lại trung tâm tín hiệu của Trạm CIA Sài Gòn có lẽ đã làm cho Samuel Halpern trở thành ngoài cuộc đối với sự kiện quốc tế đang xảy ra. Sáng sớm ngày 1/7, một chiếc máy bay C47 khác của đại tá Nguyễn Cao Kỳ đã bay ra Bắc để thả một nhóm điệp viên vào hậu phương của địch, chiếc máy bay đó bị rơi ở Ninh Bình ngay khì mới bay vào đất liền, theo như báo cáo thì do một đơn vị phòng không có tên là Gun Crew 40 nhận được lệnh bắn. Một điệp viên và hai nhân viên của đội bay đã thoát nạn. Họ đã bị bắt vào ngày 2/7 và chờ xử án ở Hà Nội vào tháng 11 năm đó. Việt Nam đã gắn sự kiện này với sự thành công bắt được toán CASTER trong khi đó lại làm thinh về vai trò thực tế của ARES.


Tháng 12 năm đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đưa ra thông báo về việc xử ba điệp viên bị bắt ở Ninh Bình, trong đó có nói rằng: những hoạt động gián điệp chống lại Bắc Việt là do quân đội Mỹ tiến hành. Các lời xác nhận của phi công C47 đã khẳng định: mệnh lệnh mà anh ta nhận được là từ quân đội Mỹ, từ một văn phòng mang tên là "nhóm cố vấn Mỹ". Đối với mọi người Mỹ có liên quan đến các hoạt động gián điệp được Hà Nội coi như là chịu sự chỉ đạo của Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI). CIA không được nhắc đến trong vụ án công khai tháng 12/1961.
Vụ án đã nhắc tới Liên đội quan sát 1 và Ngô Thế Linh-Phụ trách văn phòng 45 như là những người chỉ huy các hoạt động của các nhóm gián điệp dưới sự điều khiển của quân đội Mỹ.

Vì Hà Nội đã biết vai trò thực sự của CIA trong các hoạt động bí mật, nên coi vụ này là trách nhiệm của Lầu Năm góc. Đây là một sự liên kết lưới trong dàn hợp xướng rất thận trọng của Hà Nội, nhằm thuyết phục những người dân Bắc Việt về sự tăng cường đe doạ quân sự của Mỹ. Việc sử dụng các nhân viên quân sự mặc quân phục đã không được Hội đồng tình báo an ninh quốc gia (NSCID) 5412/2 thông qua. Sự phủ quyết này theo William Colby thì không thể áp dụng được. Căn cứ vào sự phê chuẩn ngày 11/1960 của Ban 5412, trong đó ông ta nhắc lại đã thông qua quan điểm của CIA về các hoạt động đối với Bắc Việt, và quan điểm về sử dụng lực lượng không quân Việt Nam Cộng hoà để chuyên chở các điệp viên. Mặc dù Colby phủ nhận việc máy bay C47 rơi là một sự kiện quốc tế, nhưng báo chí quốc tế kể cả báo chí Mỹ cũng đã viết vấn đề này. Samuel Halpern cũng ủng hộ lập luận của Colby: "Tôi ở Sài Gòn khi sự việc xảy ra và tôi chẳng biết tí gì về nó vì tôi không tham gia vụ này”. Có thể là không có mâu thuẫn với 5412-nơi đề ra các đường lối chung. Đối với trường hợp của Sài Gòn, nếu có nhân viên mặc quân phục tham gia thì điều đó có nghĩa rằng: nhóm đặc biệt đã chấp nhận việc sử dụng họ trong những hoạt động đặc biệt. Sự cấm đoán không quá cứng nhắc đến nỗi Ban 5412 không thể điều chỉnh được khi viện ra một nguyên nhân hợp lý nào đó.

Có một nguyên nhâu: điều khoản phủ nhận khả thi trong NSCID 5412/2 là sự thể hiện rằng hoạt động này là do Việt Nam Cộng hoà tiến hành.

Colby tin tưởng rằng: đã có một sự cố gắng để loại bỏ những bằng chứng về sự hiện diện của Mỹ ở trên máy bay, mặc dầu vụ án ở Hà Nội đã đưa ra rất nhiều bằng chứng về các vật liệu do Mỹ sản xuất nhặt được từ các mảnh vụn xác máy bay. Trong đó bao gồm một phần của bản đồ cũ năm 1954 của Cục bản đồ quân đội Mỹ trên đó có một đường bay ghi bằng bút chì mà chiếc máy bay C47 phải đi theo và những điểm cụ thể mà máy bay phải đổi hướng. Người phi công đã thú nhận rằng đây chính là bản đồ mà anh ta dùng để định hướng đường bay của mình. Sự đổi hướng cuối cùng của anh ta ở Bắc Việt lẽ ra là ở phía Tây Hoà Bình trước khi anh ta bay về căn cứ không quân Udorn, Thái Lan và sau đó trở về Sài Gòn.

Regan đã kể lại sự kiện chiếc C47 bị bắn rơi và sự mất tích của toán NAUTILUS 1 (N1) sau đó 33 năm: "Tôi nhớ vụ C47 bị rơi, nhưng tôi không nhớ có bao nhiêu người trên máy bay. Chúng tôi nhận được các báo cáo về đường bay cho đến khi nó bị rơi. Vì vậy chúng tôi biết rằng thực sự họ đã bắn rơi nó…”

"…Điều tương tự cũng xảy ra với toán trên thuyền cùng với những người nhái mà chúng tôi bị mất cuối 1962.

Chúng tôi đang theo dõi những người Bắc Việt khi họ đang đuổi chiến thuyền xâm nhập, mà nó đang cố gắng đến vĩ tuyến 17 để được an toàn. Chúng tôi rất thất vọng theo dõi những điều đã xảy ra, bởi vì biết rằng mình không thể vượt qua khu phi quân sự để giúp đỡ họ. Cuốí cùng thuyền của họ đã bị chìm ở phía Bắc khu phi quân sự, và những người trên thuyền bị bắt.”

CIA bị trách cứ về hàng loạt vấn đề xảy ra ở miền Bắc nhưng không phải tất cả đều là do chúng tôi gây ra. Chẳng hạn căn cứ không quân Đà Nẵng là nơi hạ cánh khẩn cấp cho các hoạt động do CIA bảo trợ liên quan đến việc đưa máy bay sang Trung Quốc. Tôi nhớ Hà Nội đưa tin bắn rơi một máy bay của chúng tôi nhưng sự thực lại không phải là của chúng tôi. Té ra là một máy bay của chúng tôi làm nhiệm vụ ở Trung Quốc đã bị rơi ở Bắc Việt trên đường quay trở lại Nam Việt Nam. Tôi kể lại điều này để làm ví dụ cho một sự rắc rối mà Hà Nội trách cứ chúng tôi mặc dù chẳng có gì liên quan đến trạm CIA ở Sài Gòn cả.

Trong khi các nhân viên còn sống sót trên chiếc máy bay C47 bị tra hỏi thì thiếu tá Lê Văn Bưởi rời Huế ra Quảng Ninh theo chuyến công tác riêng của mình. Tháng 9, những người trên thuyền của Ngô Thế Linh tiếp nhận một điệp viên khác để đổ bộ vào bờ biển Nghệ An. Bưởi đến được Hòn Gai, nhưng điệp viên được cử đến Nghệ An bị bắt ngay sau khi đổ bộ.

Ed Regan nhớ lại các sự kiện xảy ra ở Huế: trong khi Russ Miller có một cuộc họp rất thú vị giữa chúng tôi và Ngô Đình Cẩn năm 1960 (một trong những sĩ quan của chúng tôi đã có điều kiện tiếp xúc với Cẩn).

Tôi tin rằng có thể chúng tôi đã gửi ra Bắc một ai đó từ nhóm của Cẩn vào mùa hè 1961, nhưng còn bị giới hạn trong việc đầu tư cho hoạt động với hy vọng rằng sẽ có thông tin tình báo do điệp viên được tung ra Bắc Việt. Tôi không nhớ là điều gì đã xảy ra với điệp viên đó. Có một điệp viên khác cũng đã được lấy vào nhưng chúng tôi được biết hình như đã bị bắt tại một ga tàu hoả.

Đến cuối năm, ít ra là có 3 nhóm bán vũ trang đã đổ bộ xuống Bắc Việt, hai trong số đó hình như bị sự khống chế của kẻ địch: một chiếc C47 cùng với các nhân viên trên máy bay cũng bị mất; và người thứ ba - một gián điệp đôi có tên là ARES đã giúp Hà Nội chuẩn bị cho nạn nhân tiếp theo toán điệp viên có mật danh là NAUTILUS.

--------o0o----------
Hết mục 2.