Friday, March 22, 2013

1. KẾT GIAO VỚI HÀ NỘI / Phần I



Phần I
GIAI ĐOẠN MỞ ĐẦU
(1945-1963)

Các toán điệp viên được Mỹ đào tạo kiểu như CASTER vẫn là sự tiếp nối các bài bản về công tác tình báo bí mật của Mỹ đã tồn tại ở Việt Nam gần hai thập kỷ qua.
Hoạt động lớn đầu tiên của Mỹ là vào mùa xuân năm 1945 dưới sự chỉ huy của Archimedes L.A.Patti - Phụ trách khu vực Bắc Đông Dương với nhóm cơ quan công tác chiến lược (OSS) đóng ở Côn Minh, Nam Trung Quốc. Theo Patti, người được giới thiệu tới cơ sở vào năm 1943, khi thôi làm ở Tổng hành dinh của OSS Washington thì lực lượng địa phương ở Đông Dương là Việt Minh do Cộng sản thống lĩnh.

Việc Việt Minh chủ yếu do Cộng sản nắm quyền không quan trọng bằng sự xuất hiện trong bản thân lực lượng Việt Minh, một tổ chức rộng rãi những người theo chủ nghĩa dân tộc, tạo điều kiện cho Mỹ có thể xâm nhập và ủng hộ trong toàn Đông Dương. Hơn nữa, trong chiến tranh Thế giới thứ 2 thì OSS phối hợp một cách tích cực với các lực lượng dân tộc chủ nghĩa khác nhau phát triển từ Pháp cho đến Trung Quốc. Theo như cách nhìn nhận của Patti thì cách giải quyết mà ông ta đã đưa ra trong giai đoạn 1945 là có được kết quả phù hợp với chính sách của Washington tại thời điểm đó, chứ không phải sản phẩm riêng được tạo nên bởi sự đánh giá chủ quan của Patti. Như vậy Việt Minh đã biết Mỹ tiến hành hoạt động bí mật ở Đông Dương như thế nào không phải bằng cách đánh cắp mà là thông qua các sĩ quan OSS, những người đã đào tạo các nhân viên Việt Nam hoạt động theo kiểu Mỹ.

Việc làm đầu tiên của Patti là gặp lãnh tụ Việt Nam, Hồ Chí Minh ở Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau đó, Hồ Chí Minh và những người Việt Nam khác được đưa vào hồ sơ của Patti như những người cộng tác của Mỹ. Tháng 7 năm đó Thiếu tá Allison R. Thomas chỉ huy trưởng của toán DEER có tên là "Con nai" của OSS, đã nhảy dù xuống Bắc Việt Nam, gần Tuyên Quang, nơi mà ông ta đã trực tiếp gặp Hồ Chí Minh. Cùng đi với Thomas có hai thượng sĩ Mỹ, một sĩ quan Pháp và hai người Việt Nam.

Những nhiệm vụ mà OSS và những nhóm nhỏ của họ phải giải quyết ở Đông Dương là rất lớn. Nó bao gồm một loạt các mối quan tâm về tình báo chiến lược cũng như chiến thuật của Mỹ trên toàn Đông Dương: cung cấp các tài liệu của Nhật, tiến hành chiến tranh tâm lý, điều tra các lực lượng của Nhật, phát hiện các phi công Mỹ bị bắn rơi, các tù binh Mỹ (POW), cùng với các thông tin về tội phạm chiến tranh của Nhật Bản. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Hồ Chí Minh đã làm là: lãnh đạo sự phối hợp của Việt Minh để thu thập và chuyển thông tin cho OSS ở Trung Quốc về các lực lượng của Nhật Bản ở Đông Dương. Khi mùa hè đến thì các chuyên gia đào tạo của Patti đã giúp lực lượng tuyên truyền võ trang non trẻ của Võ Nguyên Giáp xây dựng và đào tạo hai đơn vị tác chiến đặc biệt đầu tiên của Việt Minh. Để giúp cho việc lập kế hoạch các hoạt động của OSS, có rất nhiều hồ sơ từ Côn Minh liên quan đến các cá nhân và tổ chức mà OSS đã gặp và sẽ có khả năng gặp.

Sau khi đến Côn Minh, Patti đã kết luận rằng: Hai tổ chức chính trị lớn khác là Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng hoàn toàn thân Nhật không đáng tin cậy vì một bộ phận của VNQDĐ đã có quan hệ với cơ quan tình báo quân sự Nhật trước khi Patti đến Việt Nam. Quốc dân đảng là phái thân Trung Quốc hoạt động chủ yếu ở Bắc Việt và theo mẫu hình của Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (QDĐ), Patti đã phát hiện ra rằng: những đảng viên của Quốc dân đảng mà ông ta tiếp xúc và làm việc đã cung cấp thông tin về những hoạt động của ông ta cho cả Trung Quốc và Pháp. Patti cho rằng những hoạt động trên đã loại trừ các nhóm, vì những lợi ích chính trị của họ đi ngược lại với những lợi ích của Mỹ, ra khỏi việc liên minh với OSS, nếu không thì các mục tiêu tình báo của Mỹ sẽ bị tổn hại.

Khi Đức chuẩn bị đầu hàng thì rất nhiều nhân viên tác chiến của OSS đã được cử đến Côn Minh. Theo Patti thì vấn đề cơ bản là phải thuyết phục các sĩ quan trẻ, hăng hái đọc tất cả các tài liệu gốc và nghiên cứu kỹ trước khi ra chiến trường, giống như là họ đang ở trên chiến tuyến nước Pháp.

Vào cuối tháng 8, Patti đến sân bay Gia Lâm, Hà Nội để giải quyết vấn đề đầu hàng của Nhật. Đến sau là Lucien Conein, một sĩ quan có trình độ, một nhà ngôn ngữ gốc Pháp, mới được chỉ định vào lực lượng OSS ở Côn Minh. Đầu tháng 9, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và tuyên bố chính thức thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà lâm thời. Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông ở miền Nam Việt Nam được Việt Minh đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. (1)

Một cái tên đầy ý nghĩa dù chỉ tồn tại ngắn ngủi, chủ yếu là trên giấy tờ chứ chưa phải trên thực tế.

Theo Patti thì cái chết của Tổng thống Roosevel năm 1945 là kết thúc quan hệ ngắn ngủi của Mỹ đối với nước Việt Nam độc lập của Hồ Chí Minh. Các mối quan hệ của Hồ Chí Minh với Mạc Tư Khoa bị Washington coi như là dấu hiệu bành trướng của sự cấu kết Cộng sản quốc tế rộng lớn đang đối chọi với Mỹ. Những hành động của Mỹ cùng với các liên minh lục địa của mình trong việc xây dựng lại một Châu Âu đã bị chiến tranh tàn phá-kể cả nước Pháp đồng nghĩa với việc Washington tạm thời chấm dứt kêu gọi độc lập cho các nước thuộc địa của Châu Âu. Cuối tháng 10 năm đó, Patti và các sĩ quan OSS khác rời Việt Nam và những lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho chính quyền Truman không được trả lời. Mùa xuân tiếp theo, quân đội Pháp quay trở lại để giành lấy thuộc địa của mình ở Đông Dương.

Năm 1952, Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến tranh với Việt Minh đã phải nhường lại cho lực lượng Việt Minh phần lớn các khu vực miền núi ít người ở Bắc Việt. Vào thời điểm đó, đa phần cán bộ Việt Minh không thuộc đảng cộng sản đã rời bỏ Việt Minh. Lúc ấy có một sĩ quan Mỹ trẻ, lần đầu đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ. Anh ta đã kể lại những ấn tượng và nhận xét của mình trong năm 1952 ở Bắc Việt như sau.

“…Quan điểm chính thức của những người ở Bộ Ngoại giao Mỹ là ủng hộ đường lối thân Pháp, ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đại sứ Mỹ thời kỳ này là Donald Heath tỏ ra trung thành với chính sách đó. Vì vậy có sự xung đột giữa phó trưởng đoàn ngoại giao (DCM) và đại sứ. Mỗi khi đại sứ xuống các địa phương hay đi đến một trong những nước mà mình phụ trách như Lào và Campuchia, thì Gullian liên tục đánh điện về Mỹ báo cáo những vấn đề bất đồng với đại sứ. Sao ông ta lại có thể làm những điều đó được? Bởi vì ông ta được Dan Adeson ủng hộ.

Pháp hiểu tương đối rõ về Việt Minh và các chiến thuật của Mặt trận thống nhất mà Việt Minh đang sử dụng, đó là một liên minh của các nhóm khác nhau. Đối với đảng Đại Việt, họ là những người hoàn toàn bị lừa gạt bởi ý tưởng là Nhật sẽ trao độc lập cho họ. Đảng Đại Việt trung thành với Nhật Bản, bởi vì Nhật nói rằng: khi nào chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, thì lập tức họ sẽ được độc lập. Vì vậy, họ trở thành Đảng cánh hữu, Đảng lớn nhất, lớn hơn tất cả những Đảng còn lại, kể cả Việt Minh. VNQDĐ được gọi là một biến tướng ở Việt Nam của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ có rất nhiều đảng viên và cơ sở.

Pháp và Việt Minh có những mục tiêu giống nhau đối với Việt Nam Quốc dân đảng. Mục tiêu của Việt Minh rõ ràng là loại trừ càng nhiều càng tốt những nhóm người theo chủ nghĩa dân tộc, và họ không tìm cách hợp tác với Pháp.

Pháp muốn loại trừ VNQDĐ bởi vì VNQDĐ có nhiều khả năng cầu cứu các nước Phương Tây kể cả Mỹ, bởi họ là những người theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy. Pháp rất quan tâm đến việc loại trừ họ vì Pháp muốn chính mình chiến đấu với Việt Minh cũng như đóng vai trò là bức tường thành chống lại sự xâm nhập của Cộng sản trong khuôn khổ của Châu Âu.

Vì vậy việc chống lại Việt Minh dễ dàng hơn là chống lại VNQDĐ-một Đảng được coi như là một tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc thực thụ. Do đó, cả Pháp và Việt Minh dù muốn hay không trong thực tế đã cộng tác với nhau, đấu tranh để loại trừ VNQDĐ-một Đảng được coi là có khả năng đứng vững.

Trước khi đạt điều đó thì trong chúng tôi có rất nhiều người ủng hộ quan điểm dàn xếp với VNQDĐ và thuyết phục chính quyền Mỹ một lần nữa suy nghĩ về vấn đề ủng hộ Pháp và tiếp tục cuộc đấu tranh chống Việt Minh đồng thời ủng hộ những người theo chủ nghĩa dân tộc thực thụ. Tôi ủng hộ quan điểm này và cả Edmond Gullian là người của sứ quán Mỹ cũng ủng hộ. Vì những quan điểm này, trước tiên giúp chúng tôi thiết lập một mối liên lạc dưới hình thức bí mật và sau đó là việc xâm nhập vào tổ chức của VNQDĐ. Vì vậy, họ rất hiểu chúng tôi và chúng tôi cũng rất hiểu họ.

Cuộc tranh luận này đã kéo dài giữa đại sứ Mỹ và những người ở Washington với Ed.Gullian, người được những nhân viên tình báo dạng như tôi ủng hộ. Theo tôi thì ở chừng mực nào đó, nó còn được tiếp tục tranh luận ở Washington . Nhưng các áp lực thì quá lớn. Quyết định không can thiệp… VNQDĐ đã mất đi tính liên kết tuy nó vẫn là một tổ chức, nhưng không còn là một tổ chức mạnh nữa(2). Vì vậy chỉ còn một cách lựa chọn khác là công giáo.

-----------
(1). Ở đây tác giả đã có nhầm lẫn về việc đổi tên thành phố SG thành Thành Phố Hồ Chí Minh năm 1945.
(2). Đoạn này người dịch có lẽ không dịch đủ ý, nhưng có thể hiểu là sự lúng túng của Mỹ trong việc lựa chọn một lực lượng chính trị nào đó mà có thể điều khiển được và là không cộng sản.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:51
Tôi nghĩ công giáo đã không được tiếp cận một cách đúng đắn. Mà thực tế phong trào công giáo rất có kỷ luật ở Việt Nam. Họ có thể được Vaticăng chú ý, nhưng ở Việt Nam thì chưa hẳn đã như vậy. Trong thực tế thì công giáo chia làm 3 nhóm chính : Một Tổng giám mục ở Sài Gòn, một ở Phát Diệm và một ở Bùi Chu. Những nhóm này rất khác nhau và hoạt động theo những phương thức khác nhau. Những người công giáo rất trung thành với họ.
Họ có một truyền thống mạnh mẽ thậm chí rất khủng khiếp, và ủng hộ đối với những vấn đề mà trên thực tế sẽ có hiệu quả để chống lại Việt Minh.

Người sĩ quan ấy bây giờ đã về hưu kể lại rằng: năm 1952, ông ta đã được cấp trên của mình hỏi : "Liệu anh có thể làm nổ một trong những cái cầu lớn ở vùng Việt Minh không?”

Điều này đối với tôi có vẻ hợp lý, vì vậy tôi đã tổ chức một nhóm phá hoại bao gồm phần lớn là người Trung Quốc và chúng ta đã thực hiện khá tốt. Phần lớn là tôi đưa chất nổ C-3 vào. Tôi có rất nhiều C-3 dự trữ và chúng tôi phân tán ra. Những người này vận chuyển và bị Pháp bắt khi vượt qua ranh giới vào vùng của Việt Minh.Chuyện ầm ĩ cả lên, những người Pháp thì nổi nóng . . .

Bây giờ có hai vấn đề xảy ra: Pháp cử…trùm tình báo của mình….Đến Washington và gặp Bedell Smith để phản đối hành động của Patti…(3) Bedell Smith nói: "Này, các ngài đã ngăn cản chúng tôi tiến hành hoạt động bí mật, táo bạo. Nhưng chúng tôi đã thiết kế chiến dịch này để chứng tỏ cho các ngài biết rằng điều đó có thể làm được, và các ngài cần mạnh dạn hơn trong việc tiến vào khu vực của Việt Minh chứ không phải chỉ nhằm bảo vệ các khu vực thuộc địa cũ của mình…". Sau đó, tôi tìm thấy một bị vong lục do tôi viết cho cấp trên của ông ta, trong đó nói rằng chúng tôi rnuốn tiến hành hoạt động này để tạo điều kiện cho người sĩ quan trên có làm nổ được cái cầu đó hay không? Điều đó giúp ngài hiểu rõ thêm vấn đề và gửi thông báo cho Pháp biết là có thể tiến hành chiến dịch theo kiểu này.

Khi nói về cơ quan tình báo cộng sản Việt Minh người cựu sĩ quan tặc lưỡi: “tôi đối chọi với Pháp, chứ không phải với Việt Minh".

RÕ ràng ông ta đã không biết rằng: ít nhất là đã có một sĩ quan tình báo chuyên nghiệp của Việt Minh theo dõi rất sát hai nhân viên mà ông ta vừa mới tuyển mộ. Theo như thông báo thì người sĩ quan Việt Minh này là trùm tình báo của tổ chức Việt Minh ở tỉnh Thái Bình. Điệp viên nằm vùng này đã chiếm được lòng tin của hai Tổng giám mục ở địa phận Bùi Chu-Phát Diệm với cái vỏ bọc của một con chiên rất ngoan đạo. Sau đó điệp viên này đã đi theo dòng người di cư vào Nam Việt Nam và trở thành người lãnh đạo các hoạt động của lực lượng tự vệ của Tổng giám mục.

Khi người sĩ quan Mỹ tới các mục tiêu bán quân sự của mình ở đồng bằng sông Hồng phía ngoại vi Hà Nội thì người thanh niên trẻ 20 tuổi là Lê Văn Bưởi một giáo dân ngoan đạo từ miền Đông bắc Bắc Việt đã tham gia quân đội quốc gia do Pháp chỉ huy. Sau một năm đào tạo ở trường sĩ quan Thủ Đức anh ta mang lon thiếu uý làm việc trong cơ quan tình báo do thiếu tá Biler chỉ huy. Biler là tư lệnh trưởng của Pháp ở Quảng Yên-quê hương của Bưởi. Theo Bưởi kể thì: "Pháp tin tưởng vào những giáo dân trung thành. Họ là tai mắt để theo dõi cộng đồng người Việt. Khi Điện Biên Phủ thất bại, tôi là một trong những người được chọn để đào tạo ở Pháp. Mục tiêu là xây dựng một nhóm gồm những giáo dân Việt Nam ở lại trong lòng Bắc Việt sau khi Pháp rút vào 1955. Vì nhiều nguyên nhân tôi chẳng bao giờ sang Pháp cả.

Theo hiệp định Giơnevơ (năm 1954), trung uý Bưởi thuộc lực lượng quân đội quốc gia Việt Nam rút về Nam Việt Nam. Những điệp viên mà anh ta chẳng bao giờ biết đến đã ở lại Quảng Yên và các khu vực khác tại miền Bắc .

Sự đầu hàng của Pháp ở Điện Biên Phủ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ký hiệp định Giơnevơ 1954, chia cắt đất nước Việt Nam thành hai phần ở vĩ tuyến 17. Hiệp định này cuối cùng đã tạo ra hai Nhà nước ở Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc (VNDCCH) và Cộng hoà Việt Nam (CHVN) ở miền Nam. Một dải đất hẹp phân cách hai bên ở vĩ tuyến 17 gọi là khu phi quân sự (KPQS). Sông Bến Hải chảy từ Tây sang Đông cắt ngang phần lớn khu vực này. Nó là sự chia cắt tạm thời và sẽ được giải quyết thông qua Tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào 1956.

Trong vòng một tháng sau khi ký hiệp định cùng với việc Pháp có kế hoạch rút khỏi Bắc Việt trong vòng 300 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định Mỹ là kẻ thù trong một cuộc họp của BỘ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam: "Mỹ không chỉ là kẻ thù của nhân dân Thế giới, mà Mỹ còn là kẻ thù chủ yếu của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào".

Dưới sự lãnh đạo của Allen Dulles giám đốc cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), đại tá không quân Mỹ Edward Lansdale đã đến Việt Nam sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhiệm vụ của ông ta là phát động các chiến dịch bán quân sự tổ chức đội quân ngầm ở phía Bắc trước khi Cộng sản nắm quyền. Sau đó, ông ta sẽ tiếp tục giúp đỡ để dựng Ngô Đình Diệm-một người theo đạo thiên chúa làm Tổng thống Nam Việt Nam, thay thế vua Bảo Đại.

Các điệp viên Việt Nam đã được cử đến căn cứ huấn luyện điệp viên của CIA tại đảo Saipan (thuộc quần đảo Mariana ở Thái Bình Dương).

Năm 1955, Hải quân Mỹ đã giúp các điệp viên này ém sẵn ở cảng Hải Phòng (Bắc Việt) với mục đích nằm chờ cho đến khi được lệnh hành động. Vũ khí, điện đài và vàng của họ được giấu ở những khu vực mà cơ quan tình báo Cộng sản Việt Nam khó phát hiện được. Khi Việt Minh chuẩn bị tiếp quản Bắc Việt theo các điều khoản hiệp định Giơnevơ thì Nhà thờ thiên chúa giáo đã chỉ đạo cho những giáo dân trung thành của mình di cư vào Nam.

Phạm Xuân Ẩn, một người Việt Nam còn trẻ đã liên lạc với đại tá Lansdale và các nhân viên của ông ta.

Cùng tham gia lực lượng của Lansdale bên cạnh Phái bộ quân sự Sài Gòn (SMM) và tham gia một cách rất tin cẩn vào việc cài cắm các lực lượng bán quân sự Việt Nam nằm vùng được huấn luyện ở đảo Saipan là một cựu chiến binh lành nghề và là một điệp viên trá hình-thiếu tá lục quân Mỹ Lucien Conein. Nhóm của Lansdale có thể không biết Phạm Xuân Ẩn là một sĩ quan tình báo Cộng sản đã hàng chục năm nay chuyên quan tâm tới các hoạt động của Lansdale.

Đại tá Lansdale khá nổi tiếng đối với cơ quan tình báo Bắc Việt, ông ta vừa mới hoàn thành một loạt phi vụ thắng lợi được đánh giá cao trong việc chống phiến loạn Cộng sản ở Philipin. Conein cũng nổi tiếng tương tự trong các hoạt động của mình với tư cách là điệp viên trá hình dưới quyền Patti và các cơ quan tình báo phía Bắc thường xuyên giám sát các chuyến bay Sài Gòn-Hà Nội.

Khi Pháp rút khỏi miền Bắc thì họ đã cài lại một mạng lưới điệp viên rộng lớn mà đa phần là giáo dân Việt Nam. Các hồ sơ của những điệp viên nằm vùng này được chuyển về Paris ngay khi Pháp hoàn thành việc rút quân năm 1955. Sau đó một số hồ sơ này được chuyển giao cho Ngô Đình Nhu, em ruột Ngô Đình Diệm.

Các điệp viên khác của CIA thuộc đảng Đại Việt và VNQDĐ được chuyển lại miền Bắc trước khi Pháp rút khỏi Việt Nam. Lucien Conein đã kể lại chiến dịch cài cắm người như sau.

“…Tôi nhớ là có khoảng 20 điệp viên bán quân sự nằm vùng ở miền Bắc . Chúng tôi chọn họ và gửi đi đào tạo ở Philipin. Phần lớn bọn họ thuộc Đảng Đại Việt, một số thuộc VNQDĐ. Sau khi huấn luyện chúng tôi chở họ đến Okinawa. CIA bố trí cho họ quay trở lại miền Bắc bằng tàu thuỷ, vì chúng tôi không có khả năng đưa họ ra Bắc từ Philipin. Những gì mà tôi làm ở Philipin cho đại tá Ed.Lansdale không dính dáng gì tới những gì mà CIA làm ở Saipan.

Để giúp đỡ các điệp viên của chúng tôi, khi họ trở về tôi đã thiết lập những nơi tàng trữ vàng, điện đài, vũ khí và các vật dụng khác. Các điệp viên được bố trí rải rác khắp nơi chứ không tập trung ở một điểm cụ thể nào. Họ được lệnh nằm im chờ khi có lệnh mới hành động. Tôi không nhớ rõ có một điệp viên nào đào tạo ở Philipin được triệu về miền Nam năm 1956 để xem có ai bị bắt và bị khống chế rồi chống lại chúng tôi không.

Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục cử các điệp viên ra miền Bắc cho đến cuối năm 1956. Phần lớn họ đều xuất phát từ Huế và… rất ít người quay trở lại.

Một số điệp viên nằm vùng đã có lúc liên lạc được bằng điện đài từ miền Bắc, nhưng sau đó đột nhiên tất cả đều im bặt.

Dường như tất cả đều đổ vỡ. Lúc đó là năm 1956. Hiển nhiên là các điệp viên của chúng tôi đã bị bắt, nhưng tôi chẳng bao giờ biết rõ là ai đã khai báo hay đầu hàng.

Bây giờ thì tôi biết rằng, lực lượng an ninh Bắc Việt đã liên tục theo dõi giám sát chặt những chuyến bay của tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội. Nhưng việc ấy chẳng đủ để giải thích được những gì đã xảy ra. Điều đó cũng không thể dẫn tới việc cơ quan phản gián Bắc Việt có thể lần ra các điệp viên và các nơi cất giấu vũ khí, vật dụng của chúng tôi. Không phải vậy mà chắc chắn phải có một điều gì nguy hiểm hơn thế. Có lẽ là họ đã nắm trong tay toàn bộ mạng lưới và tổ chức quét một mẻ quyết định vào cùng thời điểm.”

----------
(3). Chỗ này bản dịch không rõ ý.

THINHRAZOR21428
23-02-2009, 15:51
Gilbert Layton một trong những cựu chuyên gia biệt kích của CIA đã đánh giá lại giai đoạn này như sau:
“…Nhận lệnh từ Châu Âu đến Sài Gòn vào đầu năm 1960 tôi đã được thừa hưởng một hoặc hai két sắt trong đó chứa rất nhiều tài liệu của Ed. Lansdale bao gồm các báo cáo về những kho vàng bí mật từ những năm 1955 mà nhân viên của ông đã bí mật đưa ra miền Bắc. Tôi không rõ đã có ai biết sau Lansdale và trước cả tôi không. Những báo cáo cho thấy các kho tàng trữ của Lansdale đã chôn giấu rất nhiều vàng, một số thì dưới móng nhà, trong những hố xi măng, một số được phủ băng một lượng xi măng dày từ 0,3 - 0,6 mét. Một số người ở Tổng hành dinh muốn chúng tôi cử ra một nhóm để tìm kiếm số vàng này. Theo tôi nhớ thì số vàng đó trị giá khoảng 700.000 USD vào năm 1960. Cuối cùng thì họ đã từ bỏ ý định đó.

Các điệp viên nằm vùng đã được đào tạo ở căn cứ Saipan. Đây cũng là nơi chúng tôi dung để huấn luyện cho người Trung Quốc. Tôi nhớ người Việt Nam cuối cùng được đào tạo ở Saipan là một ông già nhỏ bé. Sau đó được đưa ra miền Bắc và ông ta đã mở một xưởng sản xuất pháo. Khốn nỗi là một lần xưởng đó bị nổ tung và ông ta đã bị chết.”

Khi Lansdale thực thi nhiệm vụ của mình ở Sài Gòn trong những năm 1955-1956 thì Tổng thống Diệm đã củng cố được quyền lực của mình ở Việt Nam Cộng hoà để chống lại các lực lượng đối lập rất rộng lớn bao gồm các giáo phái, tội phạm hình sự và Cộng sản nằm vùng. Đảng Lao động Việt Nam cũng hoạt động rất tích cực ở đó. Các đường lối đưa từ Bộ Chính trị ở Bắc Việt vào cho Lê Duẩn là đại diện ở miền Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định đã định hướng cho phong trào Cộng sản sau khi Pháp rút vào năm 1955.

Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định rằng không nhất thiết tất cả mọi người phải tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Những cán bộ trung thành của Đảng được lệnh ở lại hoạt động bí mật. Rất nhiều tổ chức quần chúng Việt Minh trước kia xuống đường ủng hộ phong trào Cộng sản trong những năm chiến tranh đã bị giải tán trên giấy tờ nay nổi dậy hoạt động dưới hình thức các nhóm chính trị đối lập với Diệm. Những vũ khí trước kia sử dụng để chống lại Pháp nay được cất giấu để phục vụ cho cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Diệm. Người nằm vùng đã tổ chức thành các tổ, hoặc đơn vị vũ trang cấp tiểu đội, trung đội. Rất nhiều đơn vị tự xưng là tiểu đoàn, mặc dù con số của họ không quá 40 người. Tên của các đơn vị này thường được gắn với tên của các tổ chức phi Cộng sản đối địch với Diệm như Cao Đài, Bình Xuyên, Hoà Hảo.

George Carve là một sĩ quan CIA ở Sài Gòn cho đến năm 1960 và là một chuyên gia phân tích tình báo cao cấp của CIA về các vấn đề Việt Nam. Đối với chiến tranh Việt Nam lần thứ hai ông ta đã đưa ra dự đoán của mình về những thách thức trong giai đoạn này:

“…Người ta rất lo lắng về hiệu ứng Domino và nếu những người Cộng sản Việt Nam chiếm toàn bộ đất nước thì họ sẽ nhanh chóng gây áp lực đối với Lào và Campuchia và cả đối với Thái Lan nữa. Điều này đối với các nhà lịch sử theo trường phái xét lại hiện nay thì rất buồn cười, nhưng thời đó lại chẳng buồn cười chút nào. Còn những người được hưởng phần lợi trong đó thì chắc sẽ chẳng bao giờ coi nó là buồn cười cả, vì tôi đã nghe những người Singapo, Thái Lan và một số nơi khác nói rằng: Những thành tựu về mặt chính trị cũng như kinh tế trong các nước còn lại ở Đông Nam Á sẽ không thể nào phát triển được nếu chúng ta không khống chế nổi những người Cộng sản Việt Nam.”

Có một sự mong muốn lớn trong giai đoạn sau hiệp định Giơnevơ là không để cho quyền lực của Cộng sản phát triển bằng vũ lực ở miền Nam Việt Nam.

Các điều khoản trong hiệp định về tuyển cử đã được nhất trí, ngoại trừ một rắc rối là việc Pierre Mendes, Thủ tướng Pháp không chấp nhận công bố thời hạn cuối cùng của giải pháp, đó là việc quyết định chọn vĩ tuyến 17 chứ không phải vĩ tuyến 16 mà lẽ ra phải như vậy.

Lúc này, miền Bắc có lợi thế số dân lớn hơn miền Nam khoảng 2.000.000 người trước khi cuộc bỏ phiếu lần đầu được tiến hành. Như vậy, mặc nhiên họ sẽ giành được 99.9% số phiếu.

Cũng do Diệm không muốn bị tự sát về chính trị nên đã tiến hành những biện pháp cứng rắn hữu hiệu của mình.

Diệm đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thanh trừng những người Cộng sản nằm vùng. Nhất là những thành viên của bộ máy lãnh đạo Đảng Lao động phụ trách phía Nam Việt Nam thuộc Xứ uỷ Nam Kỳ đã lặng lẽ rút khỏi miền Nam vào năm 1956, đến một cơ sở an toàn hơn ở Nông Pênh-Campuchia. Ở đó, họ có thể đi lại một cách an toàn bằng máy bay giữa Nông Pênh và Hà Nội. Một số cán bộ Đảng ở miền Trung cũng bắt đầu rút ra miền Bắc bằng cách vượt sông Bến Hải hoặc đi qua Lào. Người lãnh đạo bộ phận phía Nam của Đảng-Lê Duẩn đã phải đối đầu với một cuộc đấu tranh chính trị kéo dài với Diệm và không đạt kết quả.

Việc ủng hộ của Mỹ đối với Diệm đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác về sự đe dọa thực sự của Cộng sản để đưa ra một kế hoạch toàn diện và chặt chẽ nhằm giúp đỡ Việt Nam, bao gồm cả việc giúp đỡ về mặt quân sự do Washington đầu tư thông qua chương trình an ninh và tương trợ lẫn nhau (MASP). Xuất hiện các quan điểm khác nhau liên quan đến bản chất cũng như mức độ của mối đe doạ chưa kể đến trình độ và phẩm chất lãnh đạo của Diệm.

Một tổ chức thông tin tình báo về các lực lượng đối lập với Diệm đã được thành lập do tổ chức tình báo ngầm của Diệm hoạt động ngoài dinh Tổng thống. Tổ chức này do bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Huế phụ trách và chủ yếu dựa vào lực lượng giáo dân để tiến hành các hoạt động gián điệp cho Diệm. Một phần khác của lực lượng an ninh thuộc cơ quan an ninh của Diệm là lực lượng hoạt động bí mật cũng do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách mang tên Sở liên lạc do đại tá Lê Quang Tung phụ trách hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng thống Diệm. Tổ chức của bác sĩ Tuyến có thể cầu viện sự giúp đỡ của công giáo trung thành ở cả trong và ngoài chính phủ. Lực lượng của bác sĩ Tuyến tiến hành các hoạt động bí mật và thu thập các thông tin tình báo. Ngoài ra, tổ chức đó còn cài cắm những người có trình độ và năng lực mà bác sĩ Tuyến thấy cần cho các hoạt động tình báo được tiến hành trong toàn bộ Nam Việt Nam và ở một số nước láng giềng.

Bác sĩ Tuyến đã bố trí các nhân viên của mình liên minh với một Đảng chính trị bí mật mới thành lập là Đảng Cần lao Nhân vị do Tổng thống Diệm chỉ đạo.

Một trong những người em của Diệm là Ngô Đình Cẩn đã chỉ huy tổ chức tình báo riêng của mình và trực tiếp lãnh đạo Đảng bí mật thực hiện các hoạt động tình báo của giáo dân ở Huế, nơi mà ông ta có nhiệm vụ làm cố vấn cho Diệm đối với khu vực miền Trung Việt Nam. Vì sự chia cắt về mặt không gian giữa hai anh em, nên bác sĩ Tuyến báo cáo cho Tổng thống của mình qua Ngô Đình Nhu. Sự gần gũi về mặt không gian giữa Nhu và Diệm đã tạo nên một sự đối địch tất nhiên giữa ông ta với Cẩn. Một sự cạnh tranh không phải là không lường trước được đối với quyền lực và sự quan tâm.

Thành viên và mạng lưới thành viên Đảng Cần lao đã nhanh chóng trở thành phương tiện để những người ủng hộ trung thành với Diệm nhận được những hợp đồng béo bở của chính phủ và các lợi ích tài chính trực tiếp khác do đã thể hiện sự trung thành ủng hộ Diệm. Vào cuối những năm 50, điều này dẫn đến những lời buộc tội rằng: sự viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà chủ yếu rơi vào túi của những thành viên Đảng Cần lao.

Những nhu cầu của cộng đồng tình báo Mỹ đã được đáp ứng bởi một loạt các nhân viên tình báo quân sự và dân sự làm nhiệm vụ thành lập và xử lý thông tin đã cung cấp được những thông tin tình báo cần thiết. Cựu trùm tình báo CIA ở Việt Nam, William Colbly đã kể lại những nguyên tắc hoạt động với những người Nam Việt Nam như sau:
“…Ngô Đình Cẩn chỉ huy lực lượng độc lập của mình ở Huế. Đấy là vấn đề kinh doanh của ông ta. Vì vậy, nếu bạn cần làm việc ở Huế thì phải bàn với ông Cẩn. Còn nếu bạn muốn làm ở khu vực còn lại của Nam Việt Nam thì phải bàn với ông Nhu. Có một số sự cạnh tranh tự nhiên giữa các nhân viên của hai phía. Diệm thì có ý kiến rất tốt với Cẩn. Cẩn có một số ý tưởng rất xuất sắc.

Đối với CIA thì kênh chỉ huy là người Việt Nam thông qua Tuyến và Lê Quang Tung.

Chúng tôi có những quan chức chính phủ giúp đỡ, nhưng họ vẫn là những người quyết định chủ yếu còn chúng tôi chỉ đóng vai trò cố vấn, xem xét các vấn đề. Một trong những triết lý của tôi là luôn luôn coi họ là những người chỉ huy. Không nên có ý định giành mất quyền của họ, bởi vì điều đó sẽ làm họ có mặc cảm bị lãnh đạo tạo ra những phản ứng ngầm bất lợi.

Tôi chưa hề gặp Ngô Đình Cẩn. Thực tế thì ông ta không bao giờ đến các cuộc họp. Trên lý thuyết, tôi làm việc với ông ta trong nhiều năm và một số nhân viên của tôi cũng thế, nhưng họ không bao giờ gặp ông ấy cả. Tôi nghĩ rằng tôi là người duy nhất thích ông Nhu. Đại tá Tung là con người tế nhị nhất mà tôi gặp từ trước tới nay.


Trong Sở Liên lạc của bác sĩ Tuyến có phòng 45 do đại uý Ngô Thế Linh, một sĩ quan quân đội hoạt động dưới cái tên "ông Bình", phụ trách. Đại uý Linh chịu trách nhiệm về các hoạt động bí mật chống Bắc Việt Nam và các hoạt động ở các nước láng giềng Lào Campuchia. Khi cần có điệp viên. họ liên lạc với những Giám mục có thế lực của Công giáo để tìm những người cần thiết, rồi giới thiệu cho các nhân viên của bác sĩ Tuyến. Những người tỏ ra có khả năng thì được tuyển dụng. Đối với những yêu cầu về con người và kỹ năng quân sự thì đại tá Tung chịu trách nhiệm về bộ máy quân sự của Việt Nam Cộng Hoà. Đại uý Lê Quang Triều-em của đại tá Tung phụ trách Văn phòng hành chính của Sở Liên lạc dưới hình thức chỉ huy một đại đội trong đơn vị phòng vệ Phủ Tổng thống mà các điệp viên tương lai thường được cử vào đó để che giấu những hoạt động bí mật của mình.
Năm 1956, Sở Liên lạc yêu cầu cung cấp các thuyền gỗ để đưa các điệp viên và vật tư ra Bắc, cũng như từ Bắc trở vào. Cuối năm đó, một nhóm 6 người Việt Nam phần lớn độ tuổi 20, tất cả đều sinh ra ở tỉnh Quảng Bình-phía Bắc khu phi quân sự, đã được tuyển từ nhà thờ công giáo ở cảng Nha Trang để tham gia lực lượng Hải quân mới này. Cuối cùng, lực lượng Sở phòng vệ Duyên hải là lực lượng hải quân bí mật được bố trí trà trộn trên những chiếc thuyền mà các ngư dân miền Bắc của họ thường sử dụng và hình như lực lượng an ninh Bắc Việt không phát hiện ra điều này.

Sự giúp đỡ của CIA và Lầu Năm góc đối với các hoạt động ra phía Bắc của Sở Liên lạc được tiến hành thông qua Liên đội quan sát số 1. Một đơn vị quân sự do đại tá Tung chỉ huy, được xây dựng vào 1956 với sự giúp dỡ của CIA. Nó có nhiệm vụ xây dựng lực lượng nằm vùng trong trường hợp miền Nam Việt Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Bộ máy quân sự được cử đến Liên đội 1 với mục đích hành chính nhưng thực tế lại tiến hành các hoạt động tình báo do Sở liên lạc chỉ đạo. Thậm chí cuối năm 1958, đơn vị vẫn còn phải giấu các vũ khí và lực lượng nằm vùng chủ yếu vẫn là trên giấy tờ, chứ không phải trên thực tế.

Một nguồn tin tình báo khác của Washington là tổ chức việc mã thám các liên lạc vô tuyến của Hà Nội, nguồn thông tin mà độ tin cậy được xác nhận là cao nhất. Việc thu các liên lạc vô tuyến của miền Bắc từ năm 1955 chủ yếu là dựa trên một bộ phận mã thám của Pháp được triển khai ở Nam Việt Nam trước đó với 5 đội dã chiến dàn trải trên lãnh thổ Việt Nam và Lào để do thám thông tin đối phương trong và sau khi cộng sản rút ra miền Bắc năm 1955. Với sự giúp đỡ của Mỹ, nhóm công tác của Pháp ở lại trong khi các lực lượng khác của Pháp rút khỏi Nam Việt Nam vào năm 1956. Pháp đã chia sẻ kết quả các hoạt động mã thám của họ với Mỹ để đổi lấy thông tin của Mỹ về các máy phát vô tuyến của Bắc Việt, thông qua các thiết bị dò thông tin vô tuyến của Mỹ. Đến giữa năm 1957 thì nhóm hoạt động của Pháp rút.

Kết quả của thông tin tình báo nhận được khẳng định: Các máy phát vô tuyến Cộng sản vẫn hoạt động ở miền Nam và liên lạc trực tiếp với Hà Nội. Điều này thể hiện rõ ràng rằng: Các lực lượng Cộng sản Việt Nam chưa rút hết khỏi Nam Việt Nam và lực lượng bí mật của Cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại. Chẳng hạn như các thông tin vô tuyến từ Hà Nội năm 1958 xác nhận hai cơ quan đầu não ở Nam Việt Nam. Một ở phía Tây Đà Nẵng đối với Cộng sản Liên khu 5 phụ trách miền Trung Việt Nam, và một cơ quan đầu não khác phụ trách đồng bằng phía Nam, nằm ở phía Tây Sài Gòn, gần biên giới Campuchia. Trạm Tây Đà Nẵng giữ liên lạc liên tục với các đơn vị bằng cách xâm nhập gián tiếp từ Bắc vào Nam. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cam kết ủng hộ cách mạng miền Nam nhưng nhu cầu bức bách hơn đối với miền Bắc là củng cố sự kiểm soát của mình và bắt đầu quá trình quản lý một Nhà nước mới giành được. Tuy nhiên đó cũng là thời kỳ mà giới lãnh đạo ở miền Nam, bao gồm Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo cao cấp khác như Nguyễn Văn Linh-phụ trách đồng bằng Nam BỘ và Võ Chí Công-phụ trách vùng bờ biển dân cư thưa thớt ở miền Trung Việt Nam, cần sự giúp đỡ hơn là những lời nói chính trị mĩ miều.

Ba người này, cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó, biết quá rõ về những thành công của Tổng thống Diệm bởi vì vào thời kỳ 1958 tổ chức Đảng Cộng sản ở miền Nam bị tan rã. Từ một lực lượng (theo như báo cáo) có khoảng 60 nghìn đảng viên ở khu vực đồng bằng đông dân cư năm 1954, đã giảm xuống còn khoảng 5 nghìn. Tệ hại hơn là 70% các tổ chức Đảng cơ sở từ cấp huyện trở lên ở miền Trung đã bị phá vỡ. Vấn đề nan giải ở đây là có quá nhiều người lãnh đạo chính trị và quá ít quần chúng.

Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo khác ở miền Nam nắm rất rõ chính sách của miền Bắc trong ba năm đầu sau khi chia cắt đất nước. Nhưng khi mà tổ chức Đảng ở miền Nam bị tan rã, cần phải có một sự thay đổi cơ bản về mức độ ủng hộ cách mạng miền Nam nếu Bộ Chính trị của Hà Nội muốn giữ vững niềm tin trong dân chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề mà Đảng cần lúc đó là một giải pháp truyền thống giống như các giải pháp khác đã huy động được người dân Việt Nam trong quá khứ. Đó là: một lực lượng quân sự nước ngoài hiện diện ở Việt Nam có thể coi như là sự xâm lược.

Năm 1958, Lê Dụẩn được gọi về giữ cương vị xứng đáng trong hoạt động thường ngày của Bộ Chính trị Đảng Lao động và lúc này ông ta đã có thể vạch rõ sự thất bại ở miền Nam. Trong khi thực hiện lời kêu gọi của Đảng tiến hành đấu tranh chính trị đúng vào thời kỳ mà tổ chức Đảng ở miền Nam đang bị thoái trào. Ông ta khẳng định rằng năm 1956 ông đã không nhận được chỉ thị gì của Hà Nội về việc phát động lại phong trào đấu tranh vũ trang.

Chủ tịch HỒ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác đã coi Mỹ là kẻ thù chính. Nhưng vào cuối những năm 1950 còn có quá ít người Mỹ ở Nam Việt Nam để chứng tỏ rằng Mỹ xâm lược Việt Nam. Một điều may mắn đối với Hà Nội là lúc đó bắt đầu kỷ nguyên giải phóng dân tộc nên Hà Nội gặt hái được sự giúp đỡ của nước ngoài. Với Lê Duẩn đứng sau, Bộ Chính trị đã được thuyết phục rằng đây là thời cơ để tiếp tục kêu gọi đấu tranh cho quan điểm của Đảng về một nước Việt Nam Cộng sản thống nhất.

Tại thời điểm này, Đảng gặp phải một hạn chế lớn trong nỗ lực nhằm phát động lại cuộc cách mạng đã bị đình trệ ở miền Nam. Đảng có cách nhìn và lực lượng nhưng thiếu vũ khí và vật tư cần thiết để xây dựng, phát triển và giữ được xung đột dưới một trạng thái chính quy chứ không phải là những xung đột lẻ tẻ chống lại chính quyền Diệm. Đảng cũng vấp phải một thực tế là sự đàn áp mạnh mẽ năm 1956 và những sai lầm trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách ruộng đất.

Tuy nhiên, tháng 11 năm 1958, theo báo cáo cho biết thì một chỉ thị được chuyển từ Hà Nội với nội dung là phải "chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang". Chỉ thị này thực tế là bản sao trước của quyết định chính thức sẽ được Bộ Chính trị biểu quyết vào tháng 1 năm 1959 và sẽ được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc vào cuối năm 1960.

Trong khi các chỉ thị được chuyển vào Nam thì cơ quan tình báo Bắc Việt chuẩn bị một điệp viên khác để phái vào Nam vời nhiệm vụ bí mật có tầm quan trọng không kém. Điệp viên này trong hồ sơ hoạt động của cơ quan tình báo Mỹ được biết dưới mật danh ARES, ARES đến miền Nam vào đúng thời điểm Colby, một sĩ quan CIA đóng ở Roma và là một cựu chiến binh OSS của chiến tranh thế giới lần thứ II cũng đến miền Nam.

ARES và Colby với những nguyên nhân hoàn toàn khác nhau, đã đóng vai trò trong nấc thang chiến tranh này.

------o0o------
(Hết mục 1).

Vài lời của meofmaths:
- có cảm giác là người dịch và biên dịch quyển sách này không được cẩn thận lắm, nhiều đoạn khá "mờ" nghĩa.
- nếu huynh đệ nào phát hiện sai lỗi chính tả hay có góp ý gì làm ơn pm cho meofmaths.

No comments:

Post a Comment